“Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng
cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến
lược quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”(1). Để
phát triển bất kỳ thị trường sản phẩm, dịch vụ hàng hóa nào cũng cần có
chính sách phù hợp để phát huy nguồn lực từ các thành phần kinh tế này.
Thị trường sản phẩm và dịch vụ văn
hóa cũng như các thị trường sản phẩm hàng hóa khác, là nơi các sản phẩm
được lưu thông và thực hiện theo các quy luật của kinh tế thị trường.
Các chủ thể sản xuất, cung ứng dịch vụ văn hóa tuy sở hữu các sản phẩm
mang tính cá thể hóa cao nhưng khi đã kết nối với thị trường thì người
nghệ sĩ, người sáng tác, nghệ nhân… cũng phải tuân theo các quy luật của
thị trường. Đó không chỉ là các cơ chế chia sẻ lợi ích kinh tế, mà còn
là tinh thần, thái độ làm việc chuyên nghiệp (sản xuất sản phẩm bảo đảm
chất lượng, cung ứng sản phẩm đúng thời hạn, cùng chia sẻ rủi ro…). Tuy
nhiên, với những đặc thù riêng, thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa
cũng có điểm khác các thị trường khác. Do vậy, chính sách phát triển thị
trường sản phẩm, dịch vụ văn hóa cần quan tâm đến những đặc thù riêng
để khai thác được tối đa lợi thế, giảm thiểu rủi ro, thúc đẩy thị trường
này nhanh chóng phát triển.
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP THAM GIA VÀO THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM, DỊCH VỤ VĂN HÓA
Phát huy vai trò các thành phần kinh tế trong phát triển thị trường sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Trong
bối cảnh, điều kiện của nước ta, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đang
tham gia vào sản xuất các sản phẩm văn hóa, cung ứng sản phẩm cho thị
trường dịch vụ văn hóa giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với truyền thống thực hiện các
nhiệm vụ chính trị, với lợi thế, kinh nghiệm, nguồn lực con người, hệ
thống các tầng nấc trung gian kết nối đến người sản xuất…, nên các DNNN
ngành văn hóa là thành phần có đóng góp quan trọng vào sự phát triển
chung, vào giải quyết việc làm, phát triển thị trường sản phẩm và dịch
vụ văn hóa của các địa phương và cả nước.
Việc
cơ cấu lại các doanh nghiệp, trong đó có các DNNN ngành văn hóa là
chính sách quan trọng thúc đẩy phát triển thị trường sản phẩm, dịch vụ
văn hóa. Các đơn vị cần có phương án cổ phần hóa, có quy trình, cách
làm, tiến độ bảo đảm đúng quy định pháp luật và phù hợp với các đặc thù
riêng của ngành văn hóa. Yêu cầu đặt ra là các DNNN phải tái cơ cấu toàn
diện, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trên các mặt, từ
tinh gọn tổ chức bộ máy; đổi mới quản trị doanh nghiệp theo hướng hiện
đại; ứng dụng công nghệ; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ; cơ cấu lại các ngành nghề, lĩnh vực quan trọng, tập trung
phát triển, chủ động tìm hiểu, khai thác, tiến tới làm chủ thị trường...
Bên
cạnh đó, cần xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành,
địa phương trong thực hiện chính sách đối với các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa. Thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa phải
được coi trọng như các thị trường khác, tất cả các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế tham gia vào thị trường này đều phải được đối xử
công bằng, bình đẳng. Cần hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến
khích các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) tham gia vào thị trường sản phẩm
và dịch vụ văn hóa, như chính sách thuế, cho thuê đất…, nhằm tạo điều
kiện cho DNTN có thêm nguồn lực tài chính ổn định, lâu dài để đầu tư
phát triển; chính sách bảo hiểm để ngân hàng và DNTN yên tâm liên kết,
tham gia mở rộng thị trường, ứng dụng công nghệ cao trong quá trình sản
xuất, nhất là đối với các sản phẩm, dịch vụ mới tham gia thị trường… Kịp
thời sửa đổi các chính sách còn mang tính phân biệt giữa các thành phần
kinh tế, đặc biệt là các chính sách tín dụng. Tiếp tục triển khai hiệu
quả các quy định của Ngân hàng Nhà nước về cho vay của các tổ chức tín
dụng theo hướng không phân biệt giữa DNNN và DNTN, hộ gia đình cá nhân,
tất cả đều bình đẳng trong tín dụng với ngân hàng. Đặc biệt, ngân hàng
cần tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình hỗ trợ trực tiếp,
như tăng cường cho vay mới, cơ cấu lại nợ vay, đa dạng hóa các sản phẩm
tín dụng, không phân biệt lãi suất và các điều kiện vay vốn đối với các
doanh nghiệp trong hay ngoài khu vực nhà nước.
Trong
bối cảnh kinh tế tri thức, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với đặc
thù sản phẩm văn hóa muốn gia tăng giá trị phải gắn với ứng dụng khoa
học - công nghệ, trong khi đa phần các doanh nghiệp văn hóa còn có quy
mô nhỏ, chưa đủ các nguồn lực (về vốn, nhân lực…) để tiếp thu, ứng dụng
khoa học - công nghệ, do vậy, Nhà nước cần đóng vai trò “bà đỡ” trong
tiếp nhận, chuyển giao khoa học - công nghệ cho các doanh nghiệp. Đồng
thời, thúc đẩy phát triển mọi hình thức hợp tác sản xuất, kinh doanh,
cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường,
tạo môi trường liên kết giữa các thành phần kinh tế nhằm tiếp nhận,
chuyển giao, tạo sự lan tỏa rộng rãi về công nghệ tiên tiến và quản trị
hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Cần
xây dựng chiến lược phát triển thị trường các sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Nguồn
nhân lực trong các doanh nghiệp tham gia vào thị trường sản phẩm, dịch
vụ văn hóa có những đặc thù riêng, bên cạnh những tri thức cần có về thị
trường thì bắt buộc phải có vốn hiểu biết về các sản phẩm và dịch vụ
văn hóa, đam mê với các sản phẩm văn hóa. Hiện nay, nguồn nhân lực sản
xuất các sản phẩm văn hóa còn thiếu, được đào tạo tự phát, mang tính
truyền nghề. Do đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân
lực cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, khắc phục tình
trạng thiếu lao động, cả về số lượng và chất lượng, nhất là lao động có
tay nghề cao trong sản xuất các sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Cần có chính sách đẩy nhanh xã hội hóa, huy động hiệu quả các nguồn lực phát triển.
Nhà
nước cần tạo cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo môi trường để huy
động và phát huy hiệu quả các nguồn lực to lớn từ xã hội để phát triển
các sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Thúc đẩy phong trào khởi nghiệp và
đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ
và vừa thông qua việc tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các hộ
kinh doanh tự nguyện liên kết hình thành các tổ chức hợp tác hoặc hoạt
động theo mô hình doanh nghiệp; khuyến khích tư nhân góp vốn mua cổ phần
của các DNNN khi cổ phần hóa hoặc Nhà nước thoái vốn; khuyến khích, hỗ
trợ hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu hoạt động trong
ngành công nghiệp văn hóa có tiềm lực, quy mô lớn không chỉ phát triển
thị trường trong nước mà còn có tầm nhìn hướng ra thị trường ngoài
nước, đủ sức cạnh tranh trong môi trường quốc tế.
Thiết kế bộ sưu tập búp bê đầu tiên của Việt Nam thể hiện tín ngưỡng
thờ Mẫu - tín ngưỡng được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật
thể đại diện của nhân loại. (Ảnh: vietnam.vnanet.vn)
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI SẢN XUẤT VÀ CUNG ỨNG DỊCH VỤ VĂN HÓA THAM GIA VÀO THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM, DỊCH VỤ VĂN HÓA
Chính sách hỗ trợ làng nghề.
Cần
có chính sách hỗ trợ các làng nghề phát triển, đặc biệt là các làng
nghề đã được công nhận, nằm trong danh mục cần được bảo tồn. Cụ thể, đối
với các làng nghề chưa có khả năng tự phát triển thì hỗ trợ về kết cấu
hạ tầng, đầu ra sản phẩm… Đối với các làng nghề có khả năng phát triển
độc lập, tương đối bền vững thì có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện phát
triển các loại hình doanh nghiệp quy mô lớn hơn.
Các chính sách đối với sản phẩm:
Hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm, quảng bá sản phẩm ra thị trường;
xây dựng website giới thiệu, cung cấp thông tin thường xuyên về thị
trường, những quy định về chất lượng, mẫu mã sản phẩm, thị hiếu tiêu
dùng làm cơ sở định hướng sản xuất, xuất khẩu phù hợp; xây dựng “bản đồ”
thị trường các sản phẩm và dịch vụ văn hóa để từng bước chuyên nghiệp
hóa thị trường, đồng thời liên kết phát triển với ngành du lịch, tạo giá
trị gia tăng cho các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Chính sách đối với các nghệ nhân tài năng,
đặc biệt trong các lĩnh vực hội họa, kiến trúc, nghệ thuật biểu diễn…:
đãi ngộ xứng đáng để các nghệ nhân, nghệ sĩ yên tâm sáng tác, biểu diễn
tạo ra các tác phẩm có giá trị cao. Chính sách đối với lao động phổ thông tại các làng nghề:
mở các lớp tập huấn để nâng cao trình độ, kỹ năng nhằm tạo ra sản phẩm
có chất lượng cao, giá thành hạ, từ đó gia tăng giá trị cho sản phẩm,
nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Chính sách giải quyết hài hòa lợi ích của chủ thể sản xuất, cung ứng với các bên liên quan.
Một
số loại hình sản phẩm và dịch vụ văn hóa trong thị trường văn hóa đã
đạt được những thành công nhất định, như: Nghệ thuật biểu diễn (nhiều
chương trình đã thu hút hàng triệu lượt khách đến thụ hưởng như “Tinh
hoa Bắc Bộ”…); mỹ thuật Việt Nam đã có những bức tranh được bán với giá
hàng chục ngàn USD; nhiều di sản văn hóa, du lịch đã thu hút hàng chục
triệu lượt khách, trở thành “điểm đến” đối với nhiều du khách quốc tế,
góp phần mở rộng, quảng bá thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa Việt
Nam ra thế giới… Bên cạnh đó cũng có những loại hình sản phẩm chưa tạo
dựng được vị thế trên thị trường. Do đó, cần xây dựng cơ chế chia sẻ lợi
ích hài hòa, tránh sự phát triển quá thiên lệch giữa các ngành, sản
phẩm văn hóa, chủ thể sản xuất, tạo cơ sở bền vững để khai thác tài năng
các chủ thể sáng tạo, nhất là giữ chân các tài năng trẻ cống hiến cho
ngành, cho địa phương, góp phần gìn giữ vốn văn hóa dân tộc.
Chính sách đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ văn hóa đồng thời với chính sách quản lý thị trường phù hợp, hiệu quả.
Khuyến
khích các nghệ nhân, thợ giỏi thiết kế nhiều mẫu mã sản phẩm trên cơ sở
vừa giữ được nét truyền thống, vừa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Hỗ
trợ đầu tư công nghệ hiện đại theo hướng kết hợp giữa công nghệ tiên
tiến với công nghệ cổ truyền để tăng chất lượng, giảm giá thành sản
xuất, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Thị
trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa không chỉ là thị trường mang tính
kinh tế đơn thuần, mà còn mang tính xã hội sâu sắc. Các sản phẩm và dịch
vụ văn hóa chỉ có thể phát triển trong một môi trường văn hóa lành
mạnh, được quản lý hiệu quả. Cụ thể: Thứ nhất, quản lý có tính định hướng phát triển:
quan điểm quản lý đi đôi với phát triển phải được hiện thực hóa trong
các khâu, các mặt quản lý thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Đó là
khả năng xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách để thúc đẩy
thị trường phát triển phù hợp với từng giai đoạn; là khả năng điều chỉnh
chính sách, bổ sung chính sách mới để thích ứng với sự thay đổi của thị
trường. Thứ hai, quản lý có tính kết nối các chủ thể tham gia thị trường:
chủ thể quản lý nhà nước cần giữ vai trò kết nối và điều phối sự tham
gia của các chủ thể khác (các doanh nghiệp, các chủ thể sản xuất, cung
ứng…).
Chính sách phát triển thị trường đối với từng sản phẩm, dịch vụ văn hóa chủ yếu.
Đối với điện ảnh:
Tổ chức thực hiện hiệu quả Luật Điện ảnh năm 2022 và các văn bản
pháp luật liên quan phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký
kết, tham gia. Khuyến khích đầu tư tư nhân vào sản xuất các bộ phim có
chất lượng, “ăn khách”, tăng dần tỷ trọng phim truyện Việt Nam chiếu tại
các rạp để thúc đẩy thị phần phim trong nước trước sự áp đảo của phim
nước ngoài. Nâng cao chất lượng đào tạo đạo diễn, nhà sản xuất, biên
kịch, lý luận phê bình, quay phim, thiết kế mỹ thuật (sân khấu), kỹ
thuật - công nghệ, diễn viên..., chú trọng đưa các tài năng đi đào tạo,
bồi dưỡng ở những nước có ngành công nghiệp điện ảnh phát triển.
Đối với nghệ thuật biểu diễn: Tạo
điều kiện phát triển thị trường cho các tác phẩm sân khấu, chương trình
biểu diễn, các sản phẩm âm nhạc... Đặc biệt quan tâm, tạo điều kiện về
mọi mặt để khuyến khích phát triển các đơn vị nghệ thuật ngoài công lập.
Hình thành các trung tâm trình diễn nghệ thuật đa năng ứng dụng công
nghệ cao tại các thành phố lớn.
"Ký ức Hội An" - chương trình nghệ thuật thực cảnh bằng công nghệ hiện đại. (Nguồn: baovanhoa.vn)
Đối với mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm: Đầu
tư, xây dựng các công trình mỹ thuật công cộng có cảnh quan kiến trúc
và giá trị thẩm mỹ cao vừa phục vụ nhân dân, vừa tạo điểm đến thu hút du
khách, đáp ứng yêu cầu phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn
hóa. Hình thành các trung tâm giám định và đấu giá tác phẩm mỹ thuật
trong và ngoài công lập. Phát triển đội ngũ nghiên cứu phê bình lý luận
văn học, giám tuyển mỹ thuật có trình độ tương đương với các nước trong
khu vực và thế giới. Chủ động đầu tư, xây dựng các bộ sưu tập giới
thiệu, quảng bá về đất nước, văn hóa, con người Việt Nam có ứng dụng
công nghệ hiện đại tạo ra các tác phẩm nhiếp ảnh hấp dẫn, đa dạng. Xây
dựng một số mô hình triển lãm, hội chợ có thương hiệu quốc tế về xúc
tiến quảng bá, mua, bán các sản phẩm, dịch vụ văn hóa và du lịch, thực
hiện hợp tác, liên doanh, liên kết trong sáng tạo, sản xuất, phổ biến và
tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Đối với quảng cáo: Tiếp
tục hoàn thiện khung pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động
quảng cáo phát triển; thúc đẩy xã hội hóa các hoạt động quảng cáo; ứng
dụng công nghệ cao, hiện đại trong quảng cáo; tổ chức các sự kiện quảng
cáo quốc tế tại Việt Nam; đào tạo đội ngũ thiết kế quảng cáo có khả năng
tiếp thu và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nắm vững kiến thức
văn hóa, kiến thức thị trường; thúc đẩy phát triển quảng cáo ra nước
ngoài...
Đối với du lịch văn hóa:
Thúc đẩy liên kết thị trường sản phẩm, dịch vụ văn hóa với thị trường
du lịch. Bổ sung, ban hành chính sách khuyến khích phát triển các loại
hình du lịch văn hóa, đặc biệt là du lịch di sản, du lịch tâm linh, du
lịch hội thảo...
Đối với phần mềm:
Tạo điều kiện để các doanh nghiệp, cá nhân phát triển các sản phẩm phần
mềm có giá trị; tạo môi trường ứng dụng phần mềm phát triển các sản
phẩm và dịch vụ văn hóa. Sản xuất phần mềm đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn
và nhân lực chất lượng cao, Nhà nước cần xây dựng chiến lược phát triển
và hỗ trợ cụ thể.
Đối với ngành thủ công mĩ nghệ: Tạo
cơ chế mở rộng quy mô các DNNN, DNTN, các hộ kinh doanh cá thể hoạt
động trong lĩnh vực này; xây dựng các làng nghề truyền thống xanh, phát
triển bền vững; có cơ chế, chính sách đãi ngộ thỏa đáng để phát huy tài
năng các chủ thể sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ văn hóa; hoàn
thiện chính sách, tạo môi trường, điều kiện để các sản phẩm thủ công mĩ
nghệ có vị trí, vai trò quan trọng hơn nữa trên thị trường, trở thành
một trong những trụ cột quan trọng cho thị trường sản phẩm và dịch vụ
văn hóa./.
TS. Nguyễn Thị Mai Anh
Tạp chí Cộng sản
_____________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr. 128-129.