Thứ Sáu, 20/9/2024
Tuyên truyền
Thứ Tư, 14/4/2010 14:57'(GMT+7)

Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh

Phong trào giải phóng dân tộc từ đầu thế kỷ XX thấm đượm Chủ nghĩa nhân văn: công cuộc giải phóng con người gắn liền với công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, và cả nhân loại nữa, như Ph.Ăngghen đã chỉ ra: “...hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi cuộc đấu tranh giai cấp” (Ph. Ăngghen, 1883)(1). Từ những năm đó - những năm 20 của thế kỷ trước - Nguyễn Ái Quốc với tình thiết tha yêu thương con người, cả dân mình và khắp thế gian, và lòng yêu nứơc sâu sắc đã dấn thân hiến dâng cả đời mình vì dân tộc được hoàn toàn độc lập, con người được hoàn toàn tự do, và đã trở thành người chiến sĩ tiêu biểu, lỗi lạc của phong trào này - Người là “hiện thân của chủ nghĩa nhân văn cao cả, chủ nghĩa nhân văn cộng sản, là một con người nhân ái, vị tha” (Võ Nguyên Giáp, 2003)(2).

Nghiên cứu Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh

Sách báo viết về Hồ Chí Minh, cả trong nước lẫn nước ngoài, nhiều vô kể, khó làm được một tổng quan. Có một nhận xét chung là nhiều công trình trong số đó nông sâu khác nhau, dưới khía cạnh này hay khía cạnh khác, ít nhiều đều có ý tưởng tiếp cận với chuyên đề “chủ nghĩa nhân văn”, vì đấy chính là một nội dung không thể thiếu khi nói về nhân cách Hồ Chí Minh. Xin nêu một vài trường hợp tiêu biểu. Chẳng hạn, Phạm Văn Đồng năm 1926 đã tham gia lớp học do Người dạy, về sau từ những năm 1940 đến 1969, suốt gần 30 năm trực tiếp làm cộng sự, sống và làm việc trực tiếp với Người, đến năm 1990 mới hoàn thành một công trình khoa học rất sâu sắc về Con người Hồ Chí Minh, đi đến một nhận định khái quát rất chính xác: “Chất con người Hồ Chí Minh là chất Việt Nam, chất cách mạng, chất cộng sản, chất nhân văn... Hồ Chí Minh là người của chủ nghĩa nhân đạo theo ý nghĩa đầy đủ nhất” (Phạm Văn Đồng, 1990)(3). Có thể nói, đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo trong cùng một vòng tròn lôgích, gắn liền với tư tưởng cộng sản Mác - Lênin, được nuôi dưỡng trên mảnh đất Việt Nam và các giá trị nhân văn Việt Nam vừa làm điểm xuất phát vừa là mục tiêu thường trực của cách mạng Việt Nam. Người đã mang tinh hoa văn hoá Đông - Tây và tinh thần nhân ái Việt Nam (“ái quốc, ái dân”)(4) giáo dục, động viên, khơi dậy khát vọng, nhiệt tình, ý chí ở đông đảo mọi tầng lớp nhân dân đứng lên tự giải phóng dân tộc, giai cấp và bản thân con người. Phạm Văn Đồng viết: “Hồ Chí Minh là hiện thân của tình thân ái..., giàu lòng khoan dung”. Tác phong Hồ Chí Minh là một điểm nổi bật trong nhân cách cuả Người, nói khái quát, là tin ở dân và dựa vào dân, gắn bó với Đảng và dân tộc: lòng tin vào con người là một nét cơ bản của chủ nghĩa nhân văn.

Trong một số tài liệu nghiên cứu nhân cách Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh một số nội dung của chủ nghĩa nhân văn, như “thương người, quý người, nâng đỡ con người..., khiêm tốn, giản dị..., yêu thiên nhiên, hoà hợp với thiên nhiên...”(Trần Văn Giàu, 1990)(5). Tinh thần cốt lõi của chủ nghĩa nhân văn – nhân đạo chính là Con người – yêu thương con người, quý trọng con người, giúp đỡ lẫn nhau, tất cả vì con người, như Võ Nguyên Giáp viết:”Nếu như khi còn trẻ, trong “Số 1 Le Paria” (“Người cùng khổ”, năm 1922 –PMH chú thích), Bác Hồ đã chú trọng “vấn đề con người và giải phóng con người”, thì 43 năm sau, đến cuối đời, trong Di chúc (Dự thảo Di chúc viết năm 1965 – PMH chú thích) Bác vẫn căn dặn lại sau khi chiến tranh kết thúc “đầu tiên là công việc đối với con người”, “Tư tưởng về con người, về giải phóng và phát triển con người, coi con người là nhân tố quyết định thành công của cách mạng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh...Tin dân mãnh liệt, lại thương dân hết mực... (Võ Nguyên Giáp, 2003)(6).

Nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, chưa có nhiều công trình tập trung trực tiếp viết theo chủ đề “Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh”. Không có ý định làm một tổng quan về vấn đề này, chúng tôi xin được nhắc tới Hội thảo do Viện Nghiên cứu Con người thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (Thủ tướng quyết định thành lập năm 1999) tổ chức năm 2001, kỷ yếu xuất bản năm 2003(7); ở Hội thảo này có hai bài lấy tiêu đề “Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh”: bài thứ nhất của chuyên gia cao cấp Việt Phương, bài thứ hai của người viết những dòng này; ngoài ra có bài “Ý nghĩa nhân văn trong di chúc...”, có bài “Tình yêu đối với con người...” có cách tiếp cận sát với chủ đề nghiên cứu này(8). Trong bài của mình Việt Phương viết:”Nhắc đến Hồ Chí Minh là chúng ta liên tưởng ngay đến tư tưởng nhân văn...Hồ Chí Minh là người trong suốt đời mình tìm kiếm giá trị con người...Một trong những cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh đối với loài người là chủ nghĩa nhân văn về Con người được thể hiện rõ nét mang đậm tính dân tộc”(9) (Việt Phương, 2003). Ông đã đúc kết “Chủ nghĩa nhân văn và chất nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh” vào 5 điểm như sau: (1) coi trọng từng người, đào tạo, thức tỉnh từng người; (2) biết đánh giá, sử dụng, phát huy năng lực của từng người; (3) thận trọng, chăm lo, tạo điều kiện hoàn thiện nhân cách của từng người; (4) thực sự bình đẳng giữa các cá nhân con người; (5) hiểu được nhu cầu tự khẳng định của từng người. Năm điểm này vừa cụ thể hoá vừa có phần bổ sung vào những khái quát trình bầy ở trên, hoàn thiện dần hệ thái độ đối với con người từ góc độ một con người bình thường đến một nhà chính trị, một nhà lãnh đạo quốc gia, một lãnh tụ của Đảng, một nhà giáo dục, có cả dưới góc độ tâm lý học (nói tới nhu cầu tự khẳng định mình trong thang nhu cầu của nhà tâm lý học nhân văn Mátslâu (1908 – 1970, Mỹ).

Bài thứ hai mang tiêu đề “Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh – phương pháp luận nghiên cứu con người”(10). Đây là phương châm xây dựng và phát triển Viện Nghiên cứu Con người gắn liền với nghiên cứu nguồn nhân lực trong dòng chảy văn hoá như là một chân kiềng của công cuộc phát triển bền vững đất nước theo tinh thần kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống dân tộc và tiếp thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, nêu bật phép biện chứng “truyền thống - hiện đại” trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ ra nghiên cứu con người phải theo quan điểm lịch sử, quan điểm phát triển và quan điểm thực tiễn. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là phương pháp luận nghiên cứu con người bao gồm ba quan điểm đó, và là nội dung cơ bản xây dựng và phát triển nền giáo dục nhân văn là yêu cầu mới của thời đại thông tin, công nghệ mới, mở cửa, hội nhập: tăng cường giáo dục công nghệ luôn luôn phải đi liền với tăng cường giáo dục nhân văn - giáo dục con người. Trong bài thứ hai này tác giả đã nêu lên bốn nội dung của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, như lòng yêu thương con người, coi trọng con người, giải phóng con người, con đường thực hiện triết lý nhân văn, sẽ trình bầy chi tiết trong mục tiếp theo.

Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh: Những nội dung cơ bản.

Kế thừa nhiều nghiên cứu về Hồ Chí Minh, xin đề xuất một số nội dung sau đây của Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh:

1. Yêu thương vô hạn con người, nhất là người bị áp bức, nghèo khổ. Để giải phóng khỏi ách thực dân đô hộ, muốn xây dựng nước ta thành một thiên đường, từ năm 1925 Nguyễn Ái Quốc đã khuyên, dân mình phải “Hãy thương yêu nhau, cùng nhau đoàn kết” – trong thời điểm đó dân mình sống một đời nô lệ cùng khổ, nhục nhã, và cả sau này, suốt cả tiến trình cách mạng, đấy chính là nội hàm cực kỳ quan trọng của chữ “Tâm” mà Nguyễn Ái Quốc xếp lên đầu, trước “tài và lực” (Hồ Chí Minh, 1925)(11). Nói một cách dân giã, “Tâm” là “tình nghĩa”, Bác Hồ có một cách hiểu chủ nghĩa Mác Lênin hết sức độc đáo, rất Việt Nam, có một không hai trên đời này, Bác nói:”Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình nghĩa” (Hồ Chí Minh, 1968)(12). Tình thương là động lực của cuộc sống, đoàn kết là sức mạnh của cộng đồng, dân tộc. Đấy là chân lý cao đẹp nhất trong cuộc đời Hồ Chí Minh. Trong Di chúc Bác đã “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh thiếu niên, nhi đồng”.

2. Coi trọng con người. Trong xây dựng nền văn hoá dân tộc của một xã hội tốt đẹp, Hồ Chí Minh hết sức coi trọng yếu tố tâm lý con người, xây dựng yếu tố này được coi là số 1, sau đó mới đến “xây dựng luân lý, xây dựng xã hội, xây dựng chính trị, xây dựng kinh tế “(Hồ Chí Minh, 1943)(13), coi trọng tâm tư, ước vọng, nhu cầu của con người. Chủ tịch đã cống hiến cả đời mình mong sao nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Mục tiêu của cách mạng là “tất cả vì con người”.

3. Giải phóng con người khỏi áp bức, nô lệ, nghèo khổ, lầm than. Đấy là lý tưởng kiên định suốt đời Người. Từ ngày còn là học sinh trung học Nguyễn Tất Thành đã quan tâm tìm hiểu tư tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của Cách mạng Pháp, càng hiểu tư tưởng này, Người càng căm thù bọn thực dân Pháp, và quyết tâm đi tìm đường cứu dân, cứu nước, cả nước mình cả các nước thuộc địa khác, khỏi ách nước ngoài đô hộ. Tháng 5-1923, trong bài “Kỷ niệm báo Le Paria” Người đã nêu khẩu hiệu “Sự nghiệp giải phóng những người bị ngược đãi muôn năm!”(Hồ Chí Minh, 1923)(14). Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp cũng nhằm vào giải phóng con người.

4. Khoan dung. Nguyễn Ái Quốc dành trang đầu “Đường cách mạng” (1927)(15) cho mục “Tư cách người cách mạng” cần có 23 thái độ với bản thân, với người khác và với công việc; trong “Thái độ đối với người khác” thái độ đầu tiên Bác viết:”Với từng người thì khoan thứ”, ngày nay gọi là “khoan dung”, theo nghĩa thông thường, là rộng lượng (có khi nói “lượng thứ”), không chấp nhặt, biết thông cảm, đồng cảm, chia sẻ, tất nhiên không khoan nhượng, hơn nữa, phải đấu tranh với những hành vi lệch lạc, sai trái. Vì mục tiêu hoà bình, bác ái, Liên Hợp quốc đã lấy năm 1995 là năm khoan dung. Mấy lâu nay báo chí ta lên án mạnh hiện tượng vô cảm đang có xu thế ngày một tăng. Một xã hội tốt đẹp điều cực kỳ quan trọng là ở thái độ giữa con người với con người, trong đó thái độ khoan dung, thương yêu con người, tôn trọng con người là hạt nhân. Giáo dục nhân văn bắt đầu từ đó và mục tiêu quan trọng nhất là nhằm vào đó, như Bác Hồ đã viết để huấn luyện cho những cán bộ cách mạng đầu tiên của chúng ta.

5. Sử dụng đúng từng người. Phương châm hoạt động Hồ Chí Minh quán triệt suốt đời: cách mạng là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Vì vậy, ở đâu Người cũng quan tâm chăm sóc đội ngũ cán bộ làm nòng cốt và chỉ đạo phong trào, các tầng lớp nhân dân. Muốn sử dụng đúng cán bộ, phải đánh giá đúng con người, sắp xếp họ vào đúng công việc, phát huy tối ưu giá trị bản thân từng người. Ngày nay, nhiều tác giả, cả trong nước lẫn ngoài nước, đều nhắc lại thành phần Chính phủ Cụ Hồ, như một tấm gương sáng về chính sách dùng người, từ trí thức đến công nông, từ người già đến người trẻ, đặc biệt chú ý tới người tài (tháng 11-1945 Bác viết bài “Nhân tài và kiến quốc”, tháng 11-1946 Bác ban hành công văn “Tìm người tài đức” về sau được gọi là “Chiếu cầu hiền tài”). Mỗi người phải tự kiến tạo thành một hệ giá trị và cả xã hội có trách nhiệm phát huy tác dụng của hệ giá trị bản thân của mọi người - đấy là nguồn tài nguyên vô tận giữ vai trò hàng đầu tạo nên của cải, phúc lợi xã hội.

6. Một triết lý hành động. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ là một triết lý đơn thuần theo nghĩa thông thường, mà như Mác nói trong “Luận cương Phơbách”, đó là triết lý hành động - cải tạo thế giới. Cụ thể là, từ tình thương yêu con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức, đàn áp, yêu nước, yêu dân mà Bác đã thấy tận mắt và cảm nhận sâu đậm từ trong nước đến những năm bôn ba khắp các châu lục, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam, đề ra chiến lược, chiến thuật tổ chức và lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh đã có sức hấp dẫn, lôi cuốn các giai tầng xã hội, và đã là nguồn cổ vũ tạo nên sức mạnh tinh thần cho các cán bộ, chiến sĩ vượt qua cực hình trong lao tù, khó khăn gian khổ trong chiến đấu, sẵn sàng theo tiếng gọi của người “Thà hy sinh tất cả, không chịu làm nô lệ” – và biết bao cán bộ, chiến sĩ, nhân dân đã hiến thân mình, con cháu mình, của cải của gia đình mình...cho Tổ quốc và bản thân chúng ta ngày nay có cuộc sống đổi mới trong hoà bình, thống nhất, sánh vai với các nước năm châu bốn biển.

Những điều trình bày ở trên, tuy còn sơ sài, mới chỉ là một phác thảo ban đầu, có lẽ là nêu vấn đề nhiều hơn là giải quyết vấn đề, nhưng cũng đã cung cấp một số tư liệu, ý tưởng làm cơ sở để khẳng định: chủ nghĩa Mác-Lênin là kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh – là nền tảng lý luận trực tiếp của đường lối phát triển bền vững của Việt Nam./.

---------------------

(1) Ph.Ăngghen. Lời tựa cho bản tiếng Đức “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” xuất bản năm 1883. C.Mác, Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.21, Nxb CTQG, H, 1995, tr.12.

(2), (4), (6), Võ Nguyên Giáp. Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng và phát triển con người. Trong kỷ yếu Tư tưởng Hồ Chí Minh – Phương pháp luận nghiên cứu con người, do Phạm Minh Hạc, Phạm Thành Nghị, Trịnh Thị Kim Ngọc chủ biên. Nxb KHXH, H, 2003, tr.17-39, dưới đây gọi là Kỷ yếu).

(3) Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại một sự nghiệp. Nxb CTQG, H, 1990.

(5) Trần Văn Giàu. Nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Kỷ yếu Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá. Nxb KHXH. H, 1990.

(7), (8) Kỷ yếu, xem số 8 trong TLTK này.

(9) Việt Phương. Chủ nghĩa nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Kỷ yếu (xem số 8 trong TLTK này), tr.112-118.

(10) Phạm Minh Hạc. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh – Phương pháp luận nghiên cứu con người. Kỷ yếu (xem số 8 trong TLTK này), tr.148-156.

(11), (15) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.2, Nxb CTQG, H, 1995, tr.440-441, 260.

(12) Hồ Chí Minh, Sđd, t.12, 1996, tr.554.

(13) Hồ Chí Minh, t.3, 1995, tr.431.

(14) Hồ Chí Minh, t.1, 1995, tr. 463.
Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất