Thứ Sáu, 20/9/2024
Tuyên truyền
Chủ Nhật, 4/4/2010 6:4'(GMT+7)

Đảng ta vận dung sáng tạo tư tưởng của V.I - Lê nin về quan hệ hàng hóa - tiền tệ vào đổi mới kinh tế

Cách mạng Tháng Mười thành công, nền chuyên chính vô sản ở nước Nga vừa được thiết lập, chưa kịp thực hiện những nhiệm vụ mới của cách mạng đề ra ở thời kỳ quá độ thì sự can thiệp vũ trang của nước ngoài và nội chiến xảy ra.

Các nước đế quốc không chỉ tấn công bằng quân sự mà còn bao vây kinh tế đối với nước Nga và tiếp tay cho bọn phản động bên trong chống lại cách mạng XHCN và chính quyền Xô viết, hòng bóp chết thành quả còn đang trứng nước của cách mạng Tháng Mười.

Trước tình hình vô cùng nguy hiểm "ngàn cân treo sợi tóc" cả về chính trị và kinh tế, để bảo vệ thành quả cách mạng, đánh thắng bọn đế quốc can thiệp và bọn phản động trong nước; tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng đi lên, chính quyền Xô viết buộc phải thi hành "chính sách kinh tế cộng sản thời chiến". Sau khi nội chiến kết thúc nền kinh tế nước Nga lâm vào tình trạng cực kỳ khó khăn như Lê-nin đã đánh giá: đó là cuộc khủng hoảng toàn diện chưa từng có, một tai họa hết sức nguy hiểm. Xét về mặt kinh tế so với năm 1913 sản lượng công nghiệp giảm 7 lần, năng suất lao động giảm 4 lần, hàng loạt xí nghiệp công nghiệp phá sản, lực lượng công nhân trực tiếp sản xuất giảm đi 1/3. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và nông thôn còn nghiêm trọng hơn. Nông dân bất bình với việc Nhà nước trưng thu lương thực thừa, có nơi đã nổ ra biểu tình chống đối, người lao động không thích thú với công việc đồng áng. Do đó diện tích gieo trồng cũng như sản lượng lương thực, thực phẩm giảm sút nghiêm trọng; đó là chưa kể đến tâm lý chán trường của hàng triệu nông dân ở nông thôn. Đời sống nhân dân ngày một thiếu thốn, khẩu phần lương thực chỉ có 25gam bánh mỳ/người/ngày và khẩu phần đường chỉ có 200gam/người/tháng…. Song điều quan trọng là Nhà nước Liên Xô lúc đó không có đủ lương thực, thực phẩm để cung cấp cho dân theo định lượng nói trên.

Nguyên nhân của tình trạng sa sút kinh tế trên đây chủ yếu do hậu quả chiến tranh nội chiến, song mặt khác còn do tác động của "chính sách kinh tế cộng sản thời chiến" - một chính sách không có sự tồn tại quan hệ hàng hoá - tiền tệ mà chính quyền Xô viết buộc phải thực hiện nó trong điều kiện lịch sử hiểm nghèo của nước Nga lúc ấy. Đúng như Lê-nin nói: "Trong một thành trì bị bao vây, người ta có thể và phải "chặn đứng" tất cả mọi sự trao đổi. Nhờ tinh thần dũng cảm phi thường của quần chúng, chúng ta đã chịu đựng được trong 03 năm"(1). Dẫu sao thì chính sách kinh tế cộng sản thời chiến cũng đã giúp cho cách mạng nước Nga tập trung được nhân lực, vật lực và tài lực trong lúc hiểm nghèo để đẩy lùi bọn đế quốc can thiệp và chiến thắng bọn phản động trong nước chấm dứt nội chiến, giữ vững được chính quyền, bảo vệ được thành quả của cách mạng XHCN Tháng Mười.

Đương nhiên khi bước vào giai đoạn xây dựng và phát triển kinh tế ở thời bình thì "chính sách kinh tế cộng sản thời chiến" trở nên lỗi thời và biến thành "vật cản" kìm hãm sự phát triển nền kinh tế. Cần phải có những chính sách mới phù hợp với nhiệm vụ mới của cách mạng đặt ra. Đáp ứng đúng yêu cầu đó chính sách kinh tế mới - còn có tên gọi là "NEP" do Lê Nin đề sướng đã ra đời. Nội dung của "NEP" rất phong phú trong đó có một vấn đề quan trọng là cho phép nông dân được "tự do trao đổi sản phẩm thừa" sau khi đã nộp thuế nông nghiệp. Điều đó cũng có nghĩa là phục hồi lại quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân ở Nga (đã bị huỷ bỏ trong thời chiến) để thông qua đó thực hiện các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với nông dân, công nghiệp với nông nghiệp, sản xuất với tiêu dùng.

Lê-nin đã phân tích sâu sắc thực trạng kinh tế nước Nga, tâm trạng và mong muốn của những người sản xuất và quần chúng nhân dân sau nội chiến. Người nêu rõ nông dân đang đòi hỏi gì ở Nhà nước chuyên chính vô sản, ở Đảng và giai cấp công nhân chúng ta? và Người đã khẳng định: "… phải tổ chức việc trao đổi những sản phẩm công nghiệp cần thiết cho nông dân để lấy lúa mì của nông dân. Chỉ có chính sách lương thực ấy mới phù hợp với những nhiệm vụ của giai cấp vô sản. Chỉ có chính sách đó mới có thể củng cố được cơ sở của chủ nghĩa xã hội và đưa chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi hoàn toàn"(2). Đó là "chính sách đáng mong muốn nhất", "đúng nhất"(3). Tư tưởng trên đây của Lê-nin khẳng định rằng: trong nền kinh tế quốc dân có sản xuất hàng hóa phải có tự do trao đổi, phải có thương mại; điều đó diễn ra như một tất yếu kinh tế khách quan. Lê-nin còn chỉ rõ trong thời kỳ qua độ chúng ta "không nên chặn đứng mọi sự phát triển của những hình thức trao đổi không phải quốc doanh"(4) - tức là những hình thức trao đổi tư bản chủ nghĩa, hợp tác xã và tư bản Nhà nước… Làm như vậy là dại dột và tự sát. "Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy không thể nào thực hiện được; tự sát vì những Đảng nào định thi hành một chính sách như thế nhất định sẽ bị phá sản"(5).

Thực tiễn của nước Nga sau khi kết thúc nội chiến đã cho thấy việc phục hồi quan hệ hàng hóa - tiền tệ để thông qua đó thực hiện các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân và kết quả của nó chứng tỏ "NEP" đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của sản xuất, lòng mong muốn và lợi ích kinh tế hợp lý của nông dân, công nhân, những người sản xuất khác và nhân dân nước Nga sau nội chiến cách mạng. Nhờ vậy sản xuất đã phát triển nhanh chóng. Chỉ trong vòng 5 năm từ 1921 - 1925 sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và một số ngành khác đạt mức trước chiến tranh. Đặc biệt lương thực và thực phẩm tăng khá nhanh, đời sống công nhân và nông dân được cải thiện, nạn đói bị đẩy lùi. Nền kinh tế không chỉ thoát khỏi tình trạng khủng hoảng mà còn tạo được thế để đi lên, nhiều mặt tiêu cực xã hội được khắc phục nhanh chóng, tạo điều kiện cho nước Nga Xô viết phát triển phi thường trở thành một nước đại công nghiệp hùng hậu, đất nước đã được công nghiệp hóa, tăng trưởng hàng năm 17,1%. Sản xuất công nghiệp của Liên Xô năm 1985 đã bằng 85% của Mỹ, khối lượng đầu tư của Liên Xô ngang với Mỹ, tỷ trọng kinh tế của Liên Xô lúc này là 10%, trong lúc đó dân cư chỉ chiếm khoảng 5% dân số thế giới. Chính nhờ vậy mà Liên Xô đủ tiềm lực đánh bại bọn phát xít Đức trong Đại chiến thế giới lần thứ II, đồng thời giải phóng cho nhân loại thế giới thoát khỏi ách thống trị của đế quốc phát xít. Thành tựu rực rỡ của công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô đã làm cho thế giới phải kinh ngạc. Đó là sự phát triển kinh tế - xã hội vì con người, vì đại đa số nhân dân lao động.

Từ những bài học thành công và thất bại rút ra từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Liên Xô và các nước XHCN khác, cũng như ở nước ta sau hơn 20 năm đổi mới đã chứng tỏ rằng "NEP" với nội dung khôi phục và phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ nói trên sau nội chiến không chỉ có ý nghĩa nhất thời đối với nước Nga hồi đó, mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với tất cả các nước - nhất là với những nước có nền kinh tế kém phát triển tự tìm ra cho mình con đường phát triển kinh tế, thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu để tiến lên CNXH.

Với nước ta, "NEP" được coi là một trong những căn cứ khoa học hoàn hảo của những chủ trương và chính sách đổi mới trong lĩnh vực quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Nó giúp ích soi sáng cả về lý luận và thực tiễn những bước đi cụ thể trong quá trình đổi mới kinh tế hơn 20 năm qua để có được thắng lợi về kinh tế hàng hóa như hôm nay. Tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân hàng năm từ 7% đến 8,2%; lạm phát được đẩy lùi từ 774% (năm 1986) xuống một con số ở những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21; thu nhập quốc dân tính theo đầu người tăng nhanh; nông nghiệp đặc biệt là lương thực từ chỗ thiếu ăn đến chỗ đủ ăn và còn có xuất khẩu mỗi năm từ 4 đến 5 triệu tấn đứng hàng thứ 2 về xuất khẩu gạo trên thế giới. Riêng năm 1998 bị ảnh hưởng từ các cuộc khủng hoảng kinh tế, tiền tệ của các nước láng giềng, song tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn đạt 6,2%/năm; hai năm 2008 và 2009 nước ta bị tác động mạnh của cơn bão táp tài chính và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, song nước ta vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế 6,23% năm 2008 và 5,23% năm 2009 - mức cao của các nước đông nam á trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, đặc biệt là chặn đứng được tình trạng lạm phát và tăng giá cao vào cuối năm 2009; Đời sống dân sinh được ổn định.

Từ Đại hội V và đặc biệt là từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng và Nhà nước ta vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lê Nin trong “NEP” đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng trong việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, để tạo ra những đòn bẩy kinh tế thúc đẩy sản xuất và đời sống phát triển. Những chủ trương và chính sách lớn có ý nghĩa chiến lược đã được thực thi và đạt kết quả tốt, đó là:

1. Duy trì và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (kinh tế thị trường định hướng XHCN) trong suốt thời kỳ quá độ và thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Chủ trương trên đây là sự vận dụng sáng tạo quan hệ hàng - tiền trong "NEP" vào điều kiện nước ta. Nó được rút ra từ những bài học kinh nghiệm thành công và thất bại ở Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu và từ ngay trong thực tiễn nước ta sau khi kết thúc chiến tranh nhất là những năm cuối của thập kỷ 80, đã mách bảo chúng ta rằng phải xác định rõ ràng mô hình và cụ thể hơn về mục tiêu phát triển nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nền kinh tế ấy sử dụng mô hình nào? kiểu gì? và mục tiêu cuối cùng phải đạt được là gì? Không thể chỉ nói chung chung tiến lên sản xuất lớn XHCN. Trả lời những câu hỏi đó Đảng và Nhà nước ta chỉ rõ: Phải xây dựng và phát triển một nền kinh tế hàng hóa với cơ cấu nhiều thành phần (kinh tế thị trường) đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa và để nó vận hành có hiệu quả phải thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Từ quan điểm trên giúp ta suy nghĩ đúng đắn hơn, chi tiết hơn và không ngừng đổi mới những chính sách kinh tế và lợi ích để phát huy vai trò đòn bẩy của kinh tế hàng hóa, quan hệ hàng - tiền thúc đẩy sản xuất và đời sống của cả nước, nhờ vậy kinh tế nước ta phát triển khá mạnh trong hơn 20 năm qua.

Quan hệ hàng hóa - tiền tệ là phương thức, thị trường là môi trường để kinh tế hàng hóa tồn tại và phát triển trong bất kỳ chế độ xã hội nào, còn bản chất của một nền sản xuất hàng hóa thì do bản chất quan hệ sản xuất xã hội quyết định. Trong những xã hội có tồn tại chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nền sản xuất hàng hóa ở đó tất yếu mang bản chất tư bản chủ nghĩa. Ở đây, sự phân hóa giàu nghèo và tình trạng người bóc lột người là không thể tránh khỏi. Đối với nước ta có Đảng Cộng sản lãnh đạo, có Nhà nước chuyên chính vô sản của dân, do dân, vì dân, có chế độ công hữu XHCN về những tư liệu sản xuất chủ yếu, có sự quản lý của Nhà nước đối với thị trường thì nền kinh tế hàng hóa ở nước ta dù có cơ cấu nhiều thành phần, nhưng nó tất yếu đi theo định hướng XHCN và phục vụ cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã quyết tâm xóa bỏ, đoạn tuyệt với cơ chế kinh tế bao cấp, chuyển hẳn sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng quan hệ hàng - tiền để thực hiện các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với nông dân, công nghiệp với nông nghiệp, giữa các thành phần kinh tế và giữa sản xuất với tiêu dùng xã hội. Các xí nghiệp kinh tế trong sản xuất và trong lưu thông đều phải hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh, lấy thu bù chi đảm bảo có lãi hợp lý, được hưởng quyền bình đẳng trước pháp luật trong cạnh tranh thị trường, kể cả ở thị trường trong nước và thị trường ngoài nước.

Duy trì và phát triển nền kinh tế hàng hóa đa thành phần đi theo định hướng XHCN trong suốt thời kỳ quá độ; thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là chủ trương và quyết sách hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trước mắt cũng như trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Bởi lẽ kinh tế hàng hóa (kinh tế thị trường) là thành tựu văn minh của nhân loại và đang là xu thế phát triển kinh tế khách quan của các nước trên thế giới cũng như của nước ta.

2. Xây dựng thị trường xã hội thống nhất trong cả nước và gắn với thị trường thế giới. Thực hiện chính sách một giá

Quy luật vận động của quan hệ hàng hóa - tiền tệ không chấp nhận sự chia cắt thị trường xã hội thành từng mảng theo địa giới hành chính và càng không chấp nhận chính sách nhiều giá và giá bao cấp mua như "cướp", bán như "cho", sản xuất kinh doanh bất chấp lỗ lãi. Sai lầm này nước ta đã vấp phải trong một thời gian dài và tác hại của nó là kìm hãm và phá huỷ lực lượng sản xuất một cách đáng sợ như chúng ta đã biết. Vận dụng sáng tạo "NEP", Đảng và Nhà nước ta đã quyết định xây dựng một thị trường xã hội thống nhất, bảo đảm cho mọi hàng hóa được lưu thông thông suốt trong cả nước. Thực hiện chính sách một giá trên cơ sở vận dụng quy luật giá trị và quan hệ cung - cầu hàng hóa, bảo đảm giá cả sát với giá trị, xóa bỏ tình trạng "lỗ thật, lãi giả" trong nền kinh tế. Gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới là đòi hỏi khách quan để cho nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh. Sức mua trong nước và sức mua ngoài nước bổ sung cho nhau tạo thành một sức mua lớn và thường xuyên phát triển, đó chính là điều kiện quan trọng để thúc đẩy kinh tế hàng hóa ở nước ta phát triển không ngừng.

Từ Đại hội VII và đặc biệt là từ Đại hội VIII trở đi Đảng ta đã chủ trương mở rộng thị trường trong nước, thực hiện quan hệ đa phương với thị trường thế giới trên nguyên tắc bảo đảm đôi bên cùng có lợi - chính sách này đã tạo ra một sức hấp dẫn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta và kích thích ngoại thương phát triển xuất, nhập khẩu tăng nhanh có lợi cho nền kinh tế nước ta trong những thập kỷ qua.

3. Chấp nhận tự do cạnh tranh và mở rộng liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế, giữa trong nước với ngoài nước

Vận dụng sáng tạo nội dung quan hệ hàng - tiền trong "NEP", Đảng ta đã quyết tâm từ bỏ mô hình kinh tế bao cấp sơ cứng, không phù hợp chỉ có 2 thành phần kinh tế: Quốc doanh và tập thể; không thị trường, không có quan hệ trao đổi mua bán theo đúng nghĩa, không có cạnh tranh và không có liên doanh liên kết kinh tế… Thay thế bằng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế tham gia, sử dụng quan hệ hàng - tiền làm phương thức vận động, thực hiện trao đổi mua bán sản phẩm trên thị trường theo đúng quy luật giá trị - quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa. Chủ trương này đã đạt được những thành công lớn trong sự phát triển kinh tế hơn 20 năm qua.

Cạnh tranh là quy luật vốn có của sản xuất và lưu thông hàng hóa - một động lực mạnh trong kinh tế thị trường. Cạnh tranh thúc đẩy sản xuất hàng hóa và thị trường phát triển từ thấp đến cao, từ đơn điệu đến phong phú. Cấm đoán cạnh tranh là thủ tiêu mất một động lực mạnh của sản xuất hàng hóa.

Liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế, giữa kinh tế trong nước với kinh tế ngoài nước, là sự cần thiết, xuất phát từ yêu cầu phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh. Liên doanh liên kết còn nhằm mục tiêu nâng cao tiềm lực vốn, kỹ thuật, sức mạnh trong cạnh tranh và khả năng sản xuất kinh doanh của từng đơn vị xí nghiệp, các chủ thể tham gia liên doanh liên kết đều có lợi, làm giàu chính đáng cho mình, cho tập thể thì đồng thời cũng làm giàu cho xã hội. Lợi ích toàn dân, tập thể và lợi ích cá nhân được kết hợp hài hòa với nhau.

4. Để phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải dựa vào phát huy nội lực là chính, đồng thời kết hợp với sử dụng có hiệu quả các nguồn ngoại lực

Tự túc, tự cường, tự chủ vốn là truyền thống của dân tộc ta trong 4 ngàn năm lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong tình hình chính trị thế giới phức tạp như hiện nay và lực lượng sản xuất ngày càng có xu hướng quốc tế hóa, để không bị lệ thuộc vào nước ngoài vấn đề phát huy, khai thác sử dụng có hiệu quả mọi nguồn nội lực để phát triển kinh tế là điều cực kỳ quan trọng, phải xem đó là vấn đề chiến lược trước mắt cũng như lâu dài. Tuy nhiên việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn ngoại lực cũng không kém phần quan trọng để tạo điều kiện cho nước ta có thêm sức mạnh, sớm đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Song dù quan trọng đến đâu thì ngoại lực không thể thay thế được nội lực.

5. Xây dựng chính sách tài chính quốc gia phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Từ cơ chế ngân sách bao cấp Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương nhanh chóng phải chuyển sang xây dựng chính sách tài chính quốc gia phù hợp với kinh tế thị trường. Trước hết là thay đổi cơ chế hoạt động của hệ thống ngân hàng, tách các ngân hàng phục vụ sản xuất và kinh doanh, tín dụng thành hệ thống ngân hàng hoạt động theo cơ chế kinh doanh và thực hiện hạch toán kinh tế. Ngân hàng phục vụ nhu cầu vốn cho các xí nghiệp sản xuất kinh doanh phải tuân theo quy luật của quan hệ hàng - tiền. Vay vốn kinh doanh phải trả lãi theo quy định; kinh doanh mà không đủ để trả lãi thì ngân hàng cắt việc cung cấp vốn cho xí nghiệp kinh doanh; vay quá định mức hoặc quá hạn chưa trả được thì phải chịu lãi suất cao… Thành lập kho bạc Nhà nước không làm chức năng kinh doanh tiền tệ chỉ có chức năng quản lý các quỹ ngân sách: quỹ dự trữ tài chính của Nhà nước, quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước… Từng bước thực hiện luật ngân sách bảo đảm ngân sách Nhà nước thật sự trở thành một công cụ mạnh để Nhà nước quản lý nền kinh tế.

6. Trong tình hình nền kinh tế nước ta đang gặp khó khăn tạm thời như hiện nay do tác động của khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu; Đảng ta vẫn lấy phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh làm mục tiêu trung tâm để đưa ra những nhóm, giải pháp hữu hiệu nhằm kiềm chế và đẩy lùi lạm phát và tăng giá, kích cầu sản xuất, tiêu dùng, bảo đảm đời sống dân sinh và phát triển bền vững.

Hiện nay nhiều nước lớn trên thế giới trong đó có Mỹ đang bị chìm đắm trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ và dẫn đến khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu, nước ta và nhiều nước đang phát triển cũng phải hứng chịu những khó khăn lớn tác động từ cuộc khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu dội vào. Từ giữa năm 2007, nền kinh tế nước ta lại rơi vào tình trạng lạm phát bùng nổ lên mức 2 con số và kéo theo là sự tăng giá, đặc biệt là các mặt hàng thiết yếu của đời sống dân sinh, chỉ số (CPI) năm 2008 lên tới 22,9%; tốc độ tăng trưởng kinh tế bị sụt giảm từ 7,5% ở năm 2006 xuống 6,23% ở năm 2008 và 5,32% ở năm 2009; đời sống dân sinh gặp những khó khăn nhất định. Nguy cơ suy thoái kinh tế và thất nghiệp ở người lao động đang tiềm ẩn trong nền kinh tế nước ta. Để khắc phục tình trạng trên đây, Đảng và Nhà nước ta đã sớm đưa ra các nhóm giải pháp để kiềm chế lạm phát và tăng giá nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và phát triển bền vững, bảo đảm đời sống dân sinh, không chỉ tăng cường quản lý kinh tế vĩ mô mà còn mạnh dạn sử dụng những gói tài chính lớn hàng tỷ đôla từ nguồn dự trữ tài chính quốc gia để kích cầu sản xuất và tiêu dùng thông qua ưu đãi lãi suất cho vay thấp với các doanh nghiệp, đặc biệt là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang có nguy cơ bị phá sản để vực lại sản xuất, trong đó coi trọng sản xuất hàng xuất khẩu có giá trị cao và thương hiệu hấp dẫn để tăng xuất khẩu, hàng tiêu dùng có giá thành hạ để cải thiện đời sống dân sinh; duy trì tốc độ tăng trưởng không để bị tụt giảm, tạo điều kiện để phát triển kinh tế bền vững. Những giải pháp lớn trên đây là sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta về mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, nhằm sớm đưa nền kinh tế nước ta trở lại thế ổn định và phát triển đi lên. Những giải pháp đó đã và đang phát huy tác dụng: lạm phát, tăng giá cao đã được kiềm chế và chặn đứng vào cuối năm 2009, tính thanh khoán của nền kinh tế đã trở lại bình thường, nhiều mặt hàng đặc biệt là những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống dân sinh, giá cả đã ổn định, tạo niềm tin và phấn khởi trong nhân dân.

Nhìn lại hơn hai thập kỷ qua thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng trên bình diện cả nước, nội dung quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong "NEP" - mà người khởi xướng là Lê-nin, đã được Đảng và Nhà nước ta từng bước vận dụng sáng tạo từ điểm đến diện và sớm trở thành phổ biến ở tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, nhanh chóng xóa bỏ cơ chế kinh tế cũ - cơ chế kinh tế bao cấp đã lỗi thời không còn phù hợp. Nền kinh tế hàng hóa (kinh tế thị trường) nhiều thành phần tham gia phát triển theo định hướng XHCN, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thay thế cơ chế kinh tế bao cấp thật sự đã là một cơ chế kinh tế mới có sức sống đáng tin cậy ở nước ta không chỉ hơn 20 năm qua mà chắc chắn nó vẫn còn có sức sống mạnh mẽ trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.



(1) V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 43, Nxb M., 1978, tr 278.

(2) Sách đã dẫn, tr 265.

(3) Sách đã dẫn, tr 267.

(4) Sách đã dẫn, tr 267.

(5) Sách đã dẫn, tr 267.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất