Bản sắc văn hóa dân tộc là những phạm trù lúc trừu tượng, khi hữu hình
song hết sức thiêng liêng. Nó hình thành trong lịch sử lâu dài của một
dân tộc, được đúc kết từ kinh nghiệm sống và lưu truyền qua nhiều thế
hệ, gắn bó máu thịt với con người tạo nên đặc thù của từng dân tộc.
Nước ta chịu sự ảnh hưởng và du nhập của
hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây. Trước đây chủ yếu là văn hóa
phương Đông mà cụ thể là văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ, gần đây là văn hóa
phương Tây. Những nền văn hóa ấy được tinh lọc và tiếp thu trong hoàn
cảnh khác nhau nhưng chỉ những gì phù hợp mới tồn tại và phát triển.
Nghĩa là nó đã được người Việt Nam vận dụng, tiếp thu, chọn lọc những
cái mới, tiến bộ trên cơ sở bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, làm thế nào để tiếp thu các giá trị văn
minh nhân loại song vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa là một vấn đề không
dễ dàng.
Dân tộc ta có những biểu hiện riêng tạo
nên bản sắc văn hóa trong giao tiếp, ứng xử, đặc biệt là những nét văn
hóa truyền thống nhân văn, nhân ái đã được đúc kết qua những thành ngữ,
lời ca... như: “Lá lành đùm lá rách”, “Chị ngã em nâng”, “Uống nước nhớ
nguồn”, "Tôn sư trọng đạo”,... Bản sắc văn hóa còn được thể hiện qua
những di sản văn hóa mà nhiều thế hệ đi trước để lại. Đó là những sản
phẩm văn hóa có thể do thiên tạo hay nhân tạo, là vật thể hoặc phi vật
thể. Dù là gì nhưng nó phải được con người cảm xúc, rung động, thưởng
thức và đặt tên theo cách hiểu của văn hóa Việt Nam. Nhiều nơi trên thế
giới có thể cũng có vật thể giống như núi Vọng Phu, như hòn Trống Mái,
nhưng không có tên gọi như vậy...
Thế giới xung quanh ta đang vận động
trong xu hướng hội nhập với sự giao lưu giữa các nền văn hóa ngày càng
mạnh mẽ. Ngày nay, chúng ta không thể thờ ơ với những tinh hoa của văn
hóa thế giới. Bởi lẽ nếu xa rời văn minh nhân loại thì tình trạng lạc
hậu, trì trệ, chậm phát triển sẽ thêm trầm trọng và nặng nề. Điện thoại
di động, máy vi tính, ti vi cũng như rất nhiều những sản phẩm điện tử,
công nghệ sinh học, hóa học, lý học đang tràn ngập thế giới và trở thành
thiết yếu trong đời sống vật chất và tinh thần của con người. Bên cạnh
mặt tích cực bởi lợi ích của nó cũng biểu hiện nhiều lo ngại về ảnh
hưởng mặt trái. Đó cũng chính là vấn đề đặt ra để có những biện pháp
trước mắt và lâu dài để gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống và phát huy
được các giá trị đó trong đời sống hiện đại của mỗi con người Việt.
Là một mặt của văn hóa, nghệ thuật truyền
thống của dân tộc ta với nhiều loại hình gần đây có nguy cơ đang dần bị
mai một. Sở dĩ những loại hình nghệ thuật đó đã từng tồn tại lâu đời và
có sức hấp dẫn mạnh mẽ vì những di sản văn hóa tinh thần đó được xây
dựng trên nền tảng của nền nông nghiệp lúa nước. Ngày nay, khi công
nghiệp hóa tác động mạnh mẽ vào đời sống thì các loại hình nghệ thuật đó
dường như không còn khả năng hấp dẫn, cuốn hút mạnh mẽ. Thanh niên và
cả những người lớn tuổi không còn mặn mà với tuồng, chèo, ca trù, chầu
văn... Điều đó cũng bởi diễn tiến nghệ thuật lúc nghệ sĩ biểu diễn
thường diễn ra chậm trong khi diễn tiến của cuộc sống đã có nhiều ảnh
hưởng của nền kinh tế công nghiệp hiện đại trở nên gấp gáp hơn... Từ đó,
nhiều loại nhạc cụ dân tộc độc đáo của người Việt tần suất xuất hiện
trong sinh hoạt cộng đồng cũng đang dần hiếm hoi. Đàn đá Tây Nguyên tạo
được ấn tượng sâu đậm cho thính khán giả trong và ngoài nước, hiện nay
chỉ có rất ít người biết sử dụng. Các nhạc cụ độc đáo của đồng bào các
dân tộc miền núi cũng có nguy cơ mai một khi những dòng nhạc mới với các
nhạc cụ điện tử hiện đại tràn vào trong đời sống âm nhạc thường ngày.
Thực tế cho thấy, nhiều người có ý thức
giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam đang tỏ ra quan ngại khi các yếu tố văn
hóa ngoại lai có nguy cơ làm lu mờ những giá trị văn hóa truyền thống.
Gần đây, trang phục và diễn xuất của nhiều ca sĩ, diễn viên trên sân
khấu với những xì-tai (style) mới, lạ, độc và... thiếu vải đã tạo ra
phản cảm, trở thành một vấn đề nhức nhối khiến cho một bộ phận không nhỏ
khán giả quay lưng với sân khấu. Người Việt đã và đang tiếp nhận cái
tinh túy, nghệ thuật đẹp đẽ của vũ ba-lê, của nhạc rock, của kịch nói,
của nghệ thuật điện ảnh, nhưng nên cẩn trọng khi đem những tinh hoa đó
pha trộn với các giá trị văn hóa mang bản sắc lâu đời của dân tộc.
Bên cạnh tiếp thu có chọn lọc thì vấn đề
bảo tồn bản sắc văn hóa cũng cần phải có những tiếp biến và lựa chọn yếu
tố văn hóa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Lễ hội là văn hóa
truyền thống nhưng tình trạng ngày nay tổ chức quá nhiều lễ hội vừa tốn
kém, vất vả và nguy cơ bị mê tín dị đoan hóa, đấy là chưa kể có những
hiện tượng lợi dụng lễ hội cầu lợi, làm lợi cho cá nhân. Nhà văn hóa Nga
Rô-man Các-men khi đến thăm Trường nữ trung học Trưng Vương Hà Nội đã
kinh ngạc mà reo lên “đúng là tiên”, khi ông nhìn thấy các nữ sinh mặc
áo dài. Tuy nhiên không phải lúc nào và phụ nữ nào cũng dùng áo dài đúng
lúc, đúng chỗ và đẹp, tôn trọng yếu tố truyền thống của áo dài.
Giữ gìn bản sắc văn hóa còn đồng nghĩa
với giữ gìn môi trường tự nhiên. Trước đây khi nói tới Tây Bắc ta nghĩ
tới xứ sở của hoa ban, cũng như nói tới Tây Nguyên người ta hình dung
trong đầu hình ảnh của những đuốc lửa và cồng chiêng... Giờ đây, hoa ban
Tây Bắc ngày một ít, tiếng cồng chiêng của Tây Nguyên không còn được
vang rền như xưa nữa. Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa đã khẳng định điều
đó. Theo họ, Tây Nguyên hùng vĩ với đại ngàn xưa đã không còn. Tây
Nguyên hoang sơ là cái nền tự nhiên của cồng chiêng đã thay bằng Tây
Nguyên của cây công nghiệp. Tiếng cồng, chiêng chỉ âm vang khi nó được
gióng lên giữa thiên nhiên hùng vĩ ấy. Nay thiên nhiên không còn thì âm
vang cồng chiêng cũng hết. Đồng bằng Bắc Bộ, cái nôi của văn hóa Việt
Nam từ xa xưa là mảnh đất sinh ra tiếng sáo trúc véo von, tiếng sáo diều
réo rắt. Nay những thứ đó khó tìm.
Giữ gìn bản sắc văn hóa trong xu thế hội
nhập là yêu cầu vừa lâu dài vừa cấp thiết. Có lẽ, trước hết mỗi cá nhân
phải nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa. Xã
hội và nhà trường phải tăng cường giáo dục để học sinh và mọi công dân
hiểu được những giá trị, những biểu hiện truyền thống văn hóa... Bên
cạnh đó, cần phải có kế hoạch và giải pháp đồng bộ về bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa Việt Nam; có phương châm giáo dục về văn hóa một
cách quy củ, hệ thống. Giáo sư Trần Ngọc Thêm đã thốt lên: “Một môn học
về văn hóa dân tộc với mấy chục tiết trong nhà trường chỉ là những hạt
mưa, trong khi thông tin ngoài xã hội hằng ngày là những cơn lũ"...
Rõ ràng là dù trước mọi thách thức và
nguy cơ, song đến cuối cùng thì mọi giá trị đi qua, cái còn lại của mỗi
dân tộc chính là bản sắc văn hóa. Vì vậy, vấn đề định hướng, bảo tồn,
gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong dòng chảy hội nhập là
vấn đề cần được bàn kỹ, làm ngay./
ThS. Nguyễn Công Tho
Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Văn hóa Tây Bắc
(Nguồn: QĐND)