Cách
đây 80 năm, trong tình thế nước sôi lửa bỏng của cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, Ðề cương về Văn hóa Việt Nam đã ra đời, được xem như bản
Cương lĩnh đầu tiên về văn hóa của Ðảng ta. Ðề cương đã trình bày một
cách ngắn gọn, súc tích các quan niệm, phạm trù, quan điểm chỉ đạo, mục
tiêu, phương châm, nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa Việt Nam, thể
hiện một tầm nhìn xa rộng, tư duy lý luận sắc bén và khả năng đúc kết
thực tiễn sâu sát của một đảng non trẻ sau 12 năm lãnh đạo cách mạng.
Chính vì thế, bản Ðề cương vừa có tính thời sự, vừa có ý nghĩa lâu
dài, góp phần định hướng và dẫn đạo văn hóa Việt Nam trong nhiều giai
đoạn cách mạng về sau. Ðến nay, một số luận điểm, nguyên tắc, vấn đề cốt
lõi của Ðề cương vẫn giữ nguyên giá trị, có thể kế thừa, phát huy tác
dụng trong công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
hiện nay.
Trên phương diện lý luận, Ðề cương đã đặt nền móng cho
nhiều vấn đề căn cốt của văn hóa Việt Nam như: Quan hệ giữa văn hóa và
kinh tế, chính trị; vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng; chức
năng của văn hóa nghệ thuật; sự đúng đắn của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử..., từ đó góp phần thống nhất nhận thức, tư
tưởng, học thuật cho những người làm văn hóa, văn nghệ.
Trên
phương diện thực tiễn, Ðề cương không những chỉ ra rất xác đáng ba
nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa Việt Nam (dân tộc hóa, đại
chúng hóa, khoa học hóa), mà còn xác định những nhiệm vụ cần kíp, các
cách thức, giải pháp để đạt được các mục tiêu đó. Với những nội dung
thiết thực và đầy tính chiến đấu như vậy, Ðề cương đã trở thành ngọn cờ
tập hợp, đoàn kết, lôi cuốn, động viên giới trí thức, khoa học, văn học,
nghệ thuật hăng hái tham gia cách mạng và xây dựng nền văn hóa mới.
Vì
thế, bản Ðề cương đã trở thành "kim chỉ nam" đưa đường dẫn lối cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong nhiều
giai đoạn cách mạng.
Ðến nay, nguyên tắc dân tộc hóa với hàm
nghĩa "chống mọi ảnh hưởng nô dịch, khiến cho văn hóa Việt Nam phát
triển độc lập" vẫn giữ nguyên giá trị. Nguyên tắc này chính là khát khao
ngàn đời của dân tộc Việt Nam trong nỗ lực chống lại âm mưu đồng hóa
của phong kiến phương Bắc, sự "khai hóa văn minh"của thực dân Pháp,
"chính sách Ðại Ðông Á" của phát-xít Nhật, mưu toan "bá quyền văn hóa"
của các nước lớn hiện nay.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay,
việc bảo vệ độc lập về văn hóa, giữ gìn bản sắc dân tộc càng trở nên
cấp thiết hơn bao giờ hết. Bản sắc dân tộc sẽ tạo nên cốt cách, tinh
hoa, "quốc hồn, quốc túy" cho văn hóa Việt Nam, bảo đảm sự trường tồn
của dân tộc.
Bản sắc dân tộc cũng góp phần tạo nên bản lĩnh, nội
lực, sức đề kháng để giúp văn hóa Việt Nam đứng vững trong cơn lốc toàn
cầu hóa, "hòa nhập mà không hòa tan". Bản sắc dân tộc tạo nên đối trọng
chống lại sự "xâm lăng văn hóa" trong hội nhập quốc tế hiện nay.
Nhờ
đường lối đề cao tính chất dân tộc, trong những năm qua, văn hóa Việt
Nam đã ngày càng khẳng định dân tộc tính của mình. Ðã có biết bao tác
phẩm văn học, nghệ thuật, nghiên cứu, phê bình, báo chí, xuất bản giàu
bản sắc ra đời. Văn hóa truyền thống và bản sắc văn hóa Việt Nam nhờ đó
ngày càng thể hiện đậm nét và có sức lan tỏa trên trường quốc tế.
Nguyên
tắc đại chúng hóa với ý nghĩa "chống mọi chủ trương, hành động làm cho
văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa rời quần chúng" đến nay
cũng vẫn giữ nguyên tính thời sự. Một nền văn hóa tiến bộ, nhân văn,
phát triển phải là nền văn hóa của quảng đại quần chúng, xóa bỏ mọi bất
công trong phổ cập, sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Văn học, nghệ thuật
không còn là đặc quyền đặc lợi của một thiểu số, mà phải trở thành tài
sản chung của mọi tầng lớp nhân dân.
Nguyên tắc này đã được Ðảng
ta phát triển thành tính nhân dân và sau này là tính chất dân chủ của
nền văn hóa. Như vậy, văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, nhân dân đóng
vai trò chủ thể chính trong sự vận động và phát triển của văn hóa. Nói
một cách ngắn gọn, nền văn hóa của chúng ta là của dân, do dân và vì
dân. Vì thế, từ một đất nước có hơn 90% dân số mù chữ, chữ viết kém phát
triển, chúng ta đã xây dựng được một nền văn hóa mới, tiến bộ với những
thành tựu chưa từng có trong lịch sử. Bên cạnh văn hóa đại chúng, chúng
ta cũng chú trọng phát triển văn hóa tinh hoa, văn hóa bác học, văn hóa
đỉnh cao, nơi đúc kết tinh hoa của đại chúng, đại biểu cho trí tuệ của
đại chúng và dẫn dắt đại chúng phát triển.
Nguyên tắc khoa học
hóa với ý nghĩa "chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa
học, phản tiến bộ" đến nay cũng vẫn giữ nguyên giá trị. Tính chất khoa
học của nền văn hóa đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đấu tranh chống lại
những biểu hiện lạc hậu, cổ hủ, phản khoa học, cản trở sự phát triển.
Yêu cầu khoa học còn đòi hỏi phải đặt mọi vấn đề của văn hóa trên cơ sở
khoa học, đề cao tư tưởng, học thuật, phát triển các ngành khoa học.
Nội
hàm khoa học cũng luôn được Ðảng ta mở rộng, khơi sâu và phát triển.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã xác định: "Xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc",
trong đó tiên tiến chỉ sự phát triển dựa trên thế giới quan khoa học và
hệ tư tưởng tiên tiến. Tiên tiến còn hàm nghĩa những giá trị văn minh,
hiện đại, tiến bộ...
Trong bối
cảnh hiện nay, tính chất khoa học của nền văn hóa vẫn rất cần được vun
đắp, coi trọng, nhằm tiếp tục sàng lọc, loại bỏ những biểu hiện lỗi
thời, trì trệ, phản tiến bộ. Bên cạnh đó, mặc dù ngày nay khoa học kỹ
thuật đã rất phát triển, trình độ dân trí được nâng cao, nhưng nhiều
biểu hiện mê tín dị đoan, hủ tục đang có cơ trỗi dậy, xuất hiện những
điều mê tín dị đoan mới, các tà giáo, "đạo lạ", học thuyết phản động...
Vì vậy, chúng ta vẫn phải tiếp tục đấu tranh, chỉnh đốn, phản bác. Ðặc
biệt, trong thời đại của khoa học-công nghệ, nhất là cách mạng công
nghiệp 4.0, chúng ta càng phải tích cực tiếp thu các tư tưởng, thành tựu
mới của văn minh nhân loại để nâng tầm nhận thức, tư duy khoa học.
Bên
cạnh việc kế thừa và phát huy những giá trị cốt lõi của Ðề cương về Văn
hóa Việt Nam năm 1943, trong điều kiện hiện nay, Ðảng ta cũng luôn có
sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển, như về tính nhân văn của nền văn
hóa. Nhân văn thể hiện nền văn hóa đề cao lòng nhân ái, khoan dung,
nghĩa tình, yêu thương con người, coi trọng nhân phẩm. Nhân văn là biểu
hiện của bản chất con người, hướng đến các giá trị chân-thiện-mỹ. Tính
nhân văn của văn hóa là cơ sở để giáo dục, bồi dưỡng nhân tính cho cá
nhân và cộng đồng, hướng tới xây dựng một xã hội hòa bình, ổn định, mang
đậm tính người.
Thông qua những vấn đề căn cốt của công cuộc
xây dựng nền văn hóa mới, bản Ðề cương cũng đặt nền móng cho việc xây
dựng và phát triển con người. Con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể
của văn hóa, vừa là người sáng tạo ra văn hóa, đồng thời là sản phẩm
của văn hóa, được "nhào nặn" bởi văn hóa. Môi trường văn hóa như thế nào
sẽ tạo ra những con người tương ứng.
Do vậy, tính dân tộc của
văn hóa trở thành nền tảng để gây dựng những phẩm chất cá nhân như: lòng
yêu nước, tự hào dân tộc, ý chí độc lập, tự cường, ý thức cộng đồng,
tình thương yêu đồng bào, ý thức công dân, tinh thần đoàn kết xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc...
Từ tinh thần dân chủ trong văn hóa sẽ hình
thành ý thức làm chủ, thái độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, gương mẫu,
năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, vượt thoát mọi lối mòn, nỗ lực
phấn đấu vì sự phát triển của tập thể...
Tinh thần khoa học giúp
con người không ngừng nỗ lực phấn đấu, học hỏi, nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, trang bị kiến thức, kỹ năng, phát triển bản thân theo
hướng tiến bộ, đạt những đỉnh cao mới trong khoa học, kỹ thuật...
Tính
chất nhân văn của nền văn hóa sẽ giúp củng cố trong mỗi con người lòng
nhân ái, bao dung, nghĩa tình, tình yêu thương con người, đề cao nhân
phẩm, bảo vệ con người, tiến tới một xã hội tràn đầy tình yêu thương và
sự đồng cảm, củng cố đạo đức xã hội.
Trải qua 80 năm triển khai
và vận dụng sáng tạo Ðề cương về Văn hóa Việt Nam, chúng ta thấy sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người đã đạt được nhiều thành
tựu vượt bậc. Thể chế và thiết chế văn hóa ngày càng được củng cố, hoàn
thiện. Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa, nghệ thuật ngày càng
phong phú, đa dạng. Các giá trị văn hóa truyền thống, di sản văn hóa
được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Ðời sống văn hóa của nhân dân được
quan tâm và ngày càng cải thiện. Giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa
từng bước được mở rộng. Ðội ngũ quản lý, sáng tác, biểu diễn, lý luận
phê bình, nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo về văn hóa nghệ thuật
ngày càng lớn mạnh. Việc phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác,
cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây hại đến văn hóa,
lối sống con người đạt nhiều kết quả khả quan.
Tuy nhiên, bên
cạnh đó vẫn có không ít hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực tư tưởng,
đạo đức, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa, sự mất cân bằng giữa đời
sống vật chất và đời sống tinh thần, các thành tựu trong sáng tạo văn
học, nghệ thuật chưa được như kỳ vọng, hội nhập quốc tế về văn hóa chưa
đạt hiệu quả như mong muốn...
Trong bối cảnh nhiều biến động phức
tạp như hiện nay, chúng ta càng cần vận dụng sáng tạo và hiệu quả hơn
các giá trị cốt lõi của Ðề cương, góp phần thiết thực triển khai Nghị
quyết Ðại hội Ðảng lần thứ XIII về phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh
con người Việt Nam nhằm hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước phồn
vinh, hạnh phúc./
GS. TS. TỪ THỊ LOAN (nhandan.vn)