Những năm gần đây, đặc biệt là từ sau khi Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 ngày 8/9/2016, những thay đổi tích cực
của cơ chế chính sách đã góp phần thúc đẩy thị trường công nghiệp văn
hóa Việt Nam có những bước tiến mới, đóng góp tích cực vào tăng trưởng
GDP (tổng sản phẩm quốc nội) của cả nước.
Theo số liệu thống kê
của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công bố tại Hội nghị đánh giá 5 năm
triển khai, thực hiện Quyết định số 1755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
diễn ra vào ngày 20/12/2022, tính đến năm 2018, 12 ngành công nghiệp văn
hóa ở Việt Nam đã đóng góp doanh thu khoảng 8,081 tỷ USD, tương đương
3,61% GDP. Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng nhận
định, văn hóa và công nghiệp văn hóa phải song hành cùng nền kinh tế thị
trường, tạo ra giá trị, lợi ích cho con người, quốc gia.
Thực
tế, ở nước ta đã hình thành một số thị trường sản phẩm và dịch vụ văn
hóa hoạt động hiệu quả như: điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật, sách, tranh,
hàng thủ công mỹ nghệ... Song song với thị trường trong nước, thị phần
xuất khẩu hàng hóa văn hóa của Việt Nam ra thế giới cũng đạt kết quả tốt
với nhiều sản phẩm có chất lượng.
Không thể phủ nhận những dấu
ấn phát triển của một số thị trường sản phẩm và dịch vụ công nghiệp văn
hóa, tuy nhiên cũng cần thừa nhận một thực tế là các sản phẩm công
nghiệp văn hóa của Việt Nam chưa đa dạng, phong phú, kém hấp dẫn, thiếu
tính độc đáo, ứng dụng nên chưa đáp ứng được thị hiếu và thẩm mỹ ngày
càng cao của người tiêu dùng trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, nhiều
sản phẩm chưa khai thác tối ưu đặc sắc văn hóa bản địa, khó định hình
thương hiệu quốc gia nên sức cạnh tranh không cao, gặp nhiều trở ngại
khi tiếp cận các thị trường quốc tế.
Trong khi, tính đặc trưng
của văn hóa bản địa là một trong những điểm quan trọng trong thiết kế để
nhận diện sản phẩm văn hóa của mỗi quốc gia, góp phần làm nên thương
hiệu quốc gia. Đơn cử như thủ công mỹ nghệ, lĩnh vực được đánh giá là
mũi nhọn để phát triển công nghiệp văn hóa vẫn đang loay hoay tìm hướng
đi để liên tục đa dạng hóa sản phẩm, tăng tính bản địa độc đáo, hấp dẫn
trong các thiết kế mẫu mã bởi khi bước ra thị trường thế giới, các sản
phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có phần đuối sức so với mặt hàng cùng
loại của một số quốc gia. Các nghệ nhân ở các làng nghề đa phần mới chỉ
là thợ khéo tay chứ chưa phải là nhà thiết kế mẫu, trong khi sự khác
biệt về mẫu mã là một trong những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh
của sản phẩm.
Chưa kể, nhiều làng nghề hiện chỉ sản xuất gia
công theo mẫu thiết kế của nước ngoài, có rất ít sản phẩm mang thương
hiệu riêng và tiếp cận được các yêu cầu sử dụng của thị trường thế giới.
Hay như lĩnh vực du lịch, đặc biệt du lịch văn hóa là một thế mạnh của
Việt Nam nhưng dường như đang trở nên bão hòa với nhiều sản phẩm, dịch
vụ na ná nhau, thiếu bản sắc riêng. Thậm chí, không ít doanh nghiệp khai
thác du lịch kiểu chộp giật, mạnh ai nấy làm, không những không tạo ra
giá trị kinh tế mà còn làm tổn hại nghiêm trọng đến di sản và văn hóa
bản địa.
Đề cập đến các sản phẩm công nghiệp văn hóa không thể
không nhắc đến các sản phẩm thuộc lĩnh vực nghệ thuật. Những năm gần
đây, Việt Nam chứng kiến sự nở rộ của khá nhiều tác phẩm mới, từ điện
ảnh, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn... nhưng thực tế, những tác phẩm có
thể chinh phục khán giả trong nước cũng như thế giới chưa nhiều. Nhiều
sản phẩm nghệ thuật xuất hiện nhưng chưa tạo thành trào lưu; các không
gian sáng tạo bùng nổ ở nhiều đô thị nhưng có chiều hướng phát triển
không bền vững...
Theo PGS. TS. Bùi Hoài Sơn, Ủy viên
thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, Việt Nam chưa có
nhiều tên tuổi, thương hiệu của các văn nghệ sĩ, nhà sáng tạo được định
hình rõ ràng trong khu vực và trên thế giới. Ở lĩnh vực điện ảnh, nội
lực của điện ảnh Việt chưa mạnh, số lượng phim đặt hàng của Nhà nước có
thể ra rạp đếm được trên đầu ngón tay và đáng tiếc là hầu như chỉ chiếu
trong các dịp kỷ niệm với số lượng khán giả hạn chế, được mời xem miễn
phí.
Phim
Việt của tư nhân ra rạp mỗi năm cũng không thấm vào đâu và phần lớn vẫn
lép vế về lượng khán giả so với phim nước ngoài. Số lượng phim sản xuất
để phát trên các nền tảng số đã tăng nhiều nhưng nội dung khó kiểm
soát, không ít phim có nội dung nhảm nhí, phản cảm, tuyên truyền văn hóa
đồi trụy, kích động bạo lực... gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị hiếu,
thẩm mỹ của khán giả, nhất là khán giả trẻ. Một số phim Việt đã được
phát hành ở thị trường nước ngoài nhưng chưa có phim nào thật sự tạo
được tiếng vang.
Trong lĩnh vực âm nhạc, bên cạnh những sản phẩm
ghi được dấu ấn khi kết hợp và khai thác các chất liệu của văn hóa dân
gian thì có không ít sản phẩm sáng tạo là “hàng lỗi”, “hàng kém chất
lượng” bởi mang hơi hướng nửa mùa, lai căng, phản văn hóa. Nhạc sĩ Quốc
Trung đã từng chia sẻ về hiện trạng đau lòng là kho tàng âm nhạc dân
gian phong phú đã và đang trở thành những món “fast-food”, phục vụ du
khách theo những cách nghiệp dư hay dịch vụ một cách suồng sã.
Có
thể thấy, công nghiệp văn hóa Việt Nam thiếu các sản phẩm văn hóa đại
chúng có sức thu hút trên toàn cầu mặc dù tiềm năng về sức sáng tạo,
nguồn lực là rất lớn. Với quy mô dân số gần 100 triệu người nhưng kết
quả khảo sát về sức tiêu dùng các sản phẩm công nghiệp văn hóa cho thấy,
người Việt vẫn ưu ái hàng ngoại hơn bởi hàng nội chưa tạo được đột phá,
chưa đủ hấp dẫn.
Điều này dẫn
đến thực tế Việt Nam đã và đang phải nhập siêu về văn hóa từ các quốc
gia cùng khu vực châu Á như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... Thậm chí,
giai đoạn 2015-2020, gần 62% phim chiếu trên sóng VTV3-Đài Truyền hình
Việt Nam là phim nhập khẩu hoặc phim dựng từ kịch bản mua bản quyền nước
ngoài (phim Hàn Quốc và Trung Quốc chiếm tỷ lệ 79%). Hiện, phim hoạt
hình, truyện tranh, các chương trình gameshow nước ngoài hoặc theo
format nước ngoài cũng đang chiếm sóng.
Trong khi đó, ở nhiều
nước trên thế giới, ngành công nghiệp âm nhạc và công nghiệp điện ảnh
với những sản phẩm, dịch vụ chất lượng, đậm dấu ấn văn hóa không chỉ
đóng góp những tên tuổi nghệ sĩ nổi tiếng thế giới mà còn mang về những
lợi ích kinh tế khổng lồ. Thí dụ năm 2021, chỉ riêng nhóm nhạc BTS của
Hàn Quốc đã mang về 56 nghìn tỷ won (tương đương 45,5 tỷ USD), con số
dường như chỉ những tập đoàn kinh tế lớn mới có thể đạt được.
Bên
cạnh những trở ngại từ cơ sở hạ tầng, cơ chế, chính sách, pháp luật
chưa theo kịp thực tiễn phát triển, một trong các nguyên nhân quan trọng
khác khiến các sản phẩm công nghiệp văn hóa của Việt Nam thiếu tính độc
đáo, cạnh tranh là lâu nay, văn hóa và công nghiệp văn hóa thường được
nhìn nhận ở góc độ mang lại các giá trị tinh thần, ít được coi là một
loại hàng hóa lưu thông theo các quy luật của nền kinh tế thị trường.
Các
nhà quản lý và cả những người thực hiện đều khá mơ hồ, lúng túng, chưa
có một hình dung rõ ràng thế nào là một ngành công nghiệp âm nhạc hay
công nghiệp điện ảnh... nên chưa có sự đầu tư bài bản, xứng tầm. Các yếu
tố kinh doanh trên lĩnh vực văn hóa như: việc tìm đầu ra cho sản phẩm,
phát triển thị trường, marketing, xúc tiến thương mại... chưa được chú
trọng đúng mức. Mặt khác, việc khai thác các giá trị văn hóa, sử dụng
các chất liệu văn hóa bản địa chưa đúng cách, chưa tạo được sự kết nối
giữa truyền thống và đương đại khiến các sản phẩm ít có sự bứt phá trong
thiết kế, ý tưởng sáng tạo.
Trong một thế giới đa văn hóa, dung
hợp văn hóa như hiện nay, để tăng sức cạnh tranh, các sản phẩm và dịch
vụ văn hóa không những phải đa dạng, hấp dẫn, mang bản sắc văn hóa riêng
mà còn cần tương thích với những giá trị chung của toàn cầu.
Có
như vậy, mới thu hút được người tiêu dùng trong nước, hạn chế việc nhập
khẩu các sản phẩm văn hóa, đồng thời có được những sản phẩm văn hóa đại
chúng có sức thu hút trên toàn cầu, tạo cơ hội cho xuất khẩu văn hóa.
Các cơ quan quản lý, các địa phương cần xác định rõ và đánh giá đúng vai
trò kinh tế của các ngành công nghiệp văn hóa, tạo điều kiện cho thị
trường văn hóa phẩm phát triển bằng chính sách kinh tế trong văn hóa và
chính sách văn hóa trong kinh tế.
Từ đó, có một chiến lược dài
hơi, rõ ràng, đầu tư bài bản, tìm hiểu thị hiếu của người tiêu dùng để
xây dựng, phát triển và mở rộng thị trường cho các sản phẩm công nghiệp
văn hóa. Đồng thời, những tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân hoạt động trong
ngành công nghiệp văn hóa cũng luôn phải đặt đổi mới sáng tạo, nâng cao
chất lượng sản phẩm văn hóa là nhu cầu tự thân, cần được phát huy mỗi
ngày, từng bước xây dựng một thị trường sản phẩm văn hóa đa dạng, giàu
sức sống.
Song song với khuyến khích sáng tạo, cũng cần có những
biện pháp quản lý, kiểm soát hiệu quả để thị trường này phát triển đúng
hướng; tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh giúp các chủ thể phát
huy hết tiềm năng và nội lực sáng tạo, bảo đảm “sức mạnh mềm” quốc gia
được tạo nên từ những sản phẩm, dịch vụ văn hóa có chất lượng, góp phần
quảng bá hình ảnh Việt Nam trên thế giới.
Hội thảo phát triển mạng lưới thành phố sáng tạo diễn ra ngày 21/12/2021 tại Hà Nội.
THAY ĐỔI NHẬN THỨC ĐỂ PHÁT TRIỂN
Phát triển công nghiệp văn hóa là một nội dung quan trọng, một nhiệm vụ cấp bách trong Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam tầm nhìn 2030 mà Chính phủ đã ban hành ngày 12/11/2021. Sau một thời gian thực hiện, chúng ta đã thu về những thành tựu bước đầu đáng ghi nhận, nhưng về cơ bản thì con đường mang tên “công nghiệp văn hóa” vẫn còn không ít điểm nghẽn cần được tháo gỡ, trong đó vấn đề thay đổi nhận thức từ các cấp lãnh đạo, người sáng tạo đến người tiêu thụ, thưởng thức văn hóa có ý nghĩa then chốt.
|
Quan sát lộ
trình phát triển của các quốc gia trong thời kỳ hội nhập hiện nay, có
thể thấy công nghiệp văn hóa luôn giữ một vị trí hàng đầu. Không nói đâu
xa, một số nước trong khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đã gợi
ý cho chúng ta nhiều bài học quý về phát triển công nghiệp văn hóa
trong tầm nhìn chiến lược quốc gia.
Các trào lưu điện ảnh, âm
nhạc, truyện tranh,… xuất phát từ các quốc gia này đang có sức ảnh hưởng
lớn đến đời sống, tâm lý người nghe, người xem ở các quốc gia khác
trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Ngoài việc thu về những lợi ích
kinh tế đáng kể, các sản phẩm văn hóa còn góp phần khuếch trương, quảng
bá văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia.
Đến nay, nhiều quốc gia phát
triển nhận thức rất rõ, các tài nguyên dưới lòng đất, dưới biển, trên
rừng có thể bị cạn kiệt, nhưng riêng văn hóa (bao gồm các sáng tạo từ
trí tuệ con người) sẽ là nguồn của cải vô tận nếu biết khai thác, sử
dụng, phát huy giá trị của nó. Dưới góc độ kinh tế, các sản phẩm của
công nghiệp văn hóa có thể làm giàu cho một đất nước không thua kém bất
cứ một ngành công nghiệp nào. Không chỉ vậy, nó còn là nhân tố gắn kết
con người, tăng cường hợp tác, trao đổi, là “vũ khí đặc biệt ” giúp bảo
vệ bờ cõi văn hóa quốc gia.
Đảng và Nhà nước ta sớm nhìn ra tiềm
năng kinh tế trong phát triển văn hóa, gắn kết kinh tế với văn hóa,
nhưng thuật ngữ “công nghiệp văn hóa” thì mới chỉ xuất hiện trong khoảng
gần 10 năm trở lại đây. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng xác định rõ: “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng
tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở
xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu
quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ
thuật, công nghệ của thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.145).
Trước đó, Chiến lược phát triển các
ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
cũng đã nhấn mạnh: “Các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế quốc dân”. Theo đó, Nhà nước sẽ tạo mọi điều
kiện nhằm thu hút cao nhất các nguồn lực trong xã hội để phát triển công
nghiệp văn hóa, khai thác các yếu tố kinh tế của các giá trị văn hóa,
đồng thời gắn công nghiệp văn hóa với quảng bá hình ảnh đất nước, con
người Việt Nam, góp phần bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong
quá trình giao lưu, hội nhập và hợp tác quốc tế.
Kết luận của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng
11/2021 một lần nữa nhấn mạnh về tầm quan trọng của phát triển công
nghiệp văn hóa trong chiến lược chung về bảo vệ, xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Như vậy có thể nói,
ở tầm vĩ mô, nhận thức của Đảng và Nhà nước ta đã có một sự thay đổi rõ
rệt trong lĩnh vực văn hóa nói chung và trong phát triển công nghiệp
văn hóa nói riêng, phù hợp xu thế phát triển của nhiều quốc gia trên thế
giới.
Trên cơ sở đó, hệ thống chính sách pháp luật liên quan
cũng dần được kiện toàn, làm cơ sở cho công nghiệp văn hóa phát triển
thuận lợi, bền vững. Dù vậy, một sự chuyển biến về nhận thức liên quan
vấn đề phát triển công nghiệp văn hóa trong toàn xã hội nói chung vẫn
còn hạn chế. Đây là căn nguyên lý giải vì sao so với các mục tiêu khác
của chiến lược phát triển văn hóa, mục tiêu về phát triển công nghiệp
văn hóa chưa đạt được những kết quả nổi bật trong những năm qua.
Đầu
tiên cần phải nhấn mạnh về nhận thức của chính quyền các địa phương
trong phát triển công nghiệp văn hóa. Nhìn nhận từ các di sản văn hóa,
đối chiếu với quy định của Nhà nước về 12 lĩnh vực khác nhau trong công
nghiệp văn hóa gồm: Quảng cáo, kiến trúc, phần mềm và các trò chơi giải
trí, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, điện ảnh, xuất bản, thời trang, nghệ
thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, truyền hình và phát
thanh, du lịch văn hóa có thể nói rằng, không một địa phương nào không
có tiềm năng để phát triển công nghiệp văn hóa.
Mỗi vùng miền,
địa phương đều chứa đựng những giá trị độc đáo về văn hóa, làm cơ sở cho
phát triển công nghiệp văn hóa. Chiến lược phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn 2030 đã được triển khai
tốt ở một địa phương thời gian qua là nhờ vào sự thay đổi trong nhận
thức của chính quyền các cấp cơ sở.
Dù chính quyền địa phương
không trực tiếp tạo ra các sản phẩm công nghiệp văn hóa nhưng có vai trò
quan trọng trong việc tạo dựng môi trường, liên kết và khơi thông các
nguồn lực, ưu đãi đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp và người dân thông
qua các chính sách phù hợp. Ở một số địa phương, công nghiệp văn hóa đã
đóng góp lớn vào ngân sách địa phương.
Cũng
nhờ sự thay đổi trong nhận thức của chính quyền, Hà Nội đang trở thành
địa phương đi đầu, lấy nguồn lực văn hóa và sáng tạo văn hóa cho quá
trình phát triển đô thị bền vững, trở thành thành viên Mạng lưới thành
phố sáng tạo của UNESCO. Thành phố Hồ Chí Minh chọn tiêu điểm cho phát
triển công nghiệp văn hóa là lĩnh vực âm nhạc và điện ảnh. Trong khi đó,
Đà Nẵng liên tiếp đưa ra các kế hoạch hỗ trợ, thúc đẩy phát triển công
nghiệp văn hóa thông qua các đề án về bảo tồn, phát huy giá trị di sản
văn hóa.
Ngoài một số điểm sáng nêu trên, chúng ta thấy rằng,
nhận thức về tầm quan trọng của phát triển công nghiệp văn hóa ở các địa
phương còn chưa đồng đều. Một số địa phương vẫn chậm trễ trong triển
khai chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa, do nhận thức còn hạn chế
nên thiếu sự đầu tư thỏa đáng, tạo môi trường thuận lợi cho công nghiệp
văn hóa phát triển. Do đó, nhiều giá trị, di sản văn hóa độc đáo của
địa phương vẫn đang nằm im, chờ được khai thác để tham gia vào thị
trường, làm giàu cả về kinh tế lẫn đời sống tinh thần cho người dân.
Nhìn
theo ngành dọc không khó để thấy những bất cập về nhận thức vẫn đang
còn tồn tại. Các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật như văn học, sân khấu, điện
ảnh, âm nhạc, mỹ thuật vẫn chưa thật sự tham gia mạnh mẽ vào thị trường
với tư cách là một sản phẩm hàng hóa. Các hội nghề nghiệp còn lúng túng
trong công tác quản lý, tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp, nghệ sĩ sáng
tạo để đưa các sản phẩm công nghiệp văn hóa vào đời sống.
Yếu
tố cần phải nhấn mạnh tiếp theo trong phát triển công nghiệp văn hóa, là
nhận thức của các doanh nghiệp cũng như các văn nghệ sĩ - những người
trực tiếp tạo ra sản phẩm văn hóa.
Họ chính là chủ thể của công
nghiệp văn hóa, những người đóng vai trò nòng cốt sáng tạo văn hóa. Hiện
nay, một số doanh nghiệp cũng như các văn nghệ sĩ đang tích cực chuyển
đổi nhận thức để làm văn hóa. Nếu như trước đây, một vở diễn sân khấu,
một bộ phim, một cuốn sách, một album nhạc ra đời chỉ được xem đơn thuần
là một tác phẩm văn học nghệ thuật thì nay, các nhà sáng tạo đã nhìn
nhận rõ ràng, đó còn là một sản phẩm hàng hóa.
Nghĩa là phải
tính toán đến yếu tố người mua, người sử dụng và tiêu thụ sản phẩm, làm
thế nào để sản phẩm mình làm ra “sống được” trong thị trường vốn nhiều
cạnh tranh. Yếu tố khách hàng (ở đây là công chúng, người thưởng thức
văn hóa) được đặt lên hàng đầu, bởi chính họ là người đóng góp để “nuôi”
người sáng tạo thông qua việc tiếp nhận, hưởng thụ văn hóa. Dù vậy, đối
với không ít doanh nghiệp và người sáng tạo, “công nghiệp văn hóa” vẫn
còn là một khái niệm mới mẻ, và chưa thật sự nhập cuộc bằng một sự thay
đổi cần thiết trong nhận thức.
Một số doanh nghiệp còn ngần ngại
trong đầu tư vào lĩnh vực văn hóa, dù đã có những điều kiện thuận lợi
cả về môi trường đầu tư và cơ chế chính sách hỗ trợ thông thoáng của địa
phương. Tư duy cũ cho rằng văn hóa là lĩnh vực tiêu tiền, đầu tư nhiều
mà lợi nhuận thu về ít vẫn còn tồn tại. Không ít nghệ sĩ tài năng trước
nay vốn quen với quan niệm chỉ làm những gì mình thích mà ít để ý đến
yếu tố công chúng, chưa bắt nhịp vào việc liên kết với doanh nghiệp, nhà
phát hành để đưa sản phẩm của mình ra với thị trường...
Điều
cuối cùng cần nhấn mạnh trong câu chuyện thay đổi nhận thức để phát
triển công nghiệp văn hóa chính là ý thức của người dân-với vai trò đối
tượng hưởng thụ văn hóa. Trong thời đại bùng nổ công nghệ hiện nay,
người dân có điều kiện để tiếp cận nhiều sản phẩm văn hóa đến từ các
quốc gia nhưng cần lắm một tinh thần tự tôn văn hóa dân tộc, ủng hộ các
sản phẩm văn hóa “nội địa” giống như phong trào “người Việt Nam dùng
hàng Việt Nam”.
Cố nhiên ai cũng hiểu, khi một sản phẩm văn hóa
tham gia vào thị trường phải chấp nhận quy luật của thị trường, không
thể trông vào sự “giải cứu” của công chúng, nhưng rất cần sự ủng hộ tích
cực từ công chúng, trên tinh thần gạn đục khơi trong. Khi người dân với
thái độ yêu mến, sẵn sàng khuếch trương các sản phẩm văn hóa, bảo vệ
thị trường văn hóa trong nước để các nghệ sĩ và doanh nghiệp yên tâm
sáng tạo và học hỏi, chắc chắn con đường phát triển công nghiệp văn hóa
sẽ có nhiều thuận lợi.
Như vậy có thể nói, thay đổi nhận thức
đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển công nghiệp văn hóa.
Bởi vì chỉ có thay đổi nhận thức mới dẫn đến thay đổi hành động, thay
đổi thái độ ứng xử trong toàn xã hội đối với văn hóa. Muốn như vậy, bên
cạnh các giải pháp về mặt cơ chế, chính sách pháp luật, tạo dựng môi
trường thuận lợi, cần tuyên truyền mạnh mẽ trong nhân dân từ các cấp
quản lý đến các doanh nghiệp, văn nghệ sĩ và công chúng về vai trò của
văn hóa trong giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân
dân, cũng như đóng góp to lớn của văn hóa vào nền kinh tế đất nước,/,
MINH ANH - VŨ QUỲNH TRANG (nhandan.vn)