Thứ Sáu, 20/9/2024
Giáo dục
Thứ Bảy, 21/11/2015 11:27'(GMT+7)

Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục: Tìm hướng tiếp cận mới

 

 

                                                                 

 

 

Dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) trình Đại hội XII của Đảng vừa đưa ra lấy ý kiến nhân dân đã chỉ rõ thành công lớn nhất trong GD&ĐT là: “Các nghị quyết của Đảng về GD&ĐT được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, đạt được những thành quả nhất định. Quy mô mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng. Hệ thống GD&ĐT các câp từ cơ sở đến đại học, dạy nghề được tổ chức lại một bước….. Chất lượng GD&ĐT có tiến bộ. Cơ sở vật chất, thiết bị GD&ĐT được cải thiện và có bước hiện đại hóa,…”[1].

Tuy vậy, trong đánh giá, Đảng ta chỉ rõ: chất lượng, hiệu quả GD&ĐT còn thấp so với yêu cầu phát triển, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội; chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người; chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. “Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. Quản lý giáo dục và đào tạo có mặt còn yếu kém.  Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất-kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn”[2]; xu hướng thương mại hóa và sa sút đạo đức trong giáo dục còn chậm được khắc phục, đang trở thành nỗi bức xúc của toàn xã hội.

Việc đổi mới căn bản và toàn diện nền GD&ĐT nước ta đang đặt ra yêu cầu cấp thiết. Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: “Giáo dục là quốc sách hang đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”[3]. Ở Văn kiện Đại hội Đảng lầ thứ XI, Đảng ta xác định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”[4]. Như vậy, Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng lần này, Đảng ta yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục và đào tạo, nhưng trước hết: Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Đồng thời, đòi hỏi: “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học và công nghệ, với quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực”[5].

Việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, với tiến bộ khoa học và công nghệ, với quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực, theo tôi cần được tiến hành với các giải pháp toàn diện, đồng bộ, bao gồm các nội dung cơ bản sau:

1.Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ các yếu tó cơ bản của GD&ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội,….

2. Coi trọng xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội trong phối hợp chặt chẽ với nhà trường để giáo dục thế hệ trẻ từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Tiếp tục phát triển và nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục và đào tạo. Đầu tư hợp lý, có hiệu quả vào xây dựng một số cơ sở giáo dục, đào tạo đạt trình độ quốc tế.

3. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập sút đời và xây dựng xã hội học tập. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề, giáo dục đại học gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Tập trung cho đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và chính sách ưu tiên, đặc thù, thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo. Xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh vực mũi nhọn; đồng thời chú trọng đào tạo nghề cho nông dân, nhất là đối với những nơi, những người thuộc diện thu hồi đất; nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo. Quan tâm hơn tới phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ người có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo vượt khó, học sinh khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển đảo còn nhiều khó khăn.

4. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ, tự lực, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở GD&ĐT; coi trọng quản lý chất lượng. Thực hiện hợp lý cơ chế tự chủ đối với các cơ sở GD&ĐT gắn với đổi mới cơ chế tài chính. Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, quản lý mục tiêu, chất lượng GD&ĐT. Phát triển hệ thống kiểm định, kiểm tra, giám sát và công bố công khai kết quả kiểm định, kiểm tra chất lượng GD&ĐT; tổ chức xếp hạng cơ sở GD&ĐT. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát; kiên quyết khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong GD&ĐT. Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hóa GD&ĐT trên cả ba phương diện: huy động các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời; mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong GD&ĐT. 

Để thực hiện được mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam trong nhiệm kỳ tới (2016-2020), theo chúng tôi cần bổ sung thực hiện tốt mấy giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, đổi mới tổ chức hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về GD&ĐT. Đây là giải pháp có tính đột phá trong đổi mới quản lý giáo dục. Việc phát triển GD&ĐT, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay đang là một đòi hỏi cấp bách, đồng thời là một trong những đột phá có tính chiến lược của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH,HĐH gắn phát triển kinh tế-xã hội và  tiến bộ khoa học - công nghệ, với quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy, cần tổ chức lại hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về GD&ĐT  phát triển nguồn nhân lực của quốc gia, theo hướng tinh gọn có một cơ quan (Bộ Giáo dục) thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông thuộc Bộ GD&ĐT hiện nay và một cơ quan (Bộ Đào tạo và Phát triển nguồn nhân lực) thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và phát triển nguồn nhân lực quốc gia (bao gồm bộ phận quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và giáo dục thường xuyên mà hiện nay đang thuộc Bộ GD&ĐT; các bộ, ngành khác chỉ có chức năng phối hợp giáo dục và đào tạo. Nếu không tổ chức lại hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo thì chúng ta không thể đổi mới quản lý giáo dục và “đổi mới căn bản và toàn diện” nền giáo dục Việt Nam theo dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng.

Thứ hai, xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân và phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục theo hướng: “Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên...”[6].

Trong những năm tới, nhu cầu học tập của nhân dân ta ngày càng cao và đa dạng. Xây dựng và phát triển hệ thống học tập suốt đời, xây dựng một xã hội học tập là chủ trương lớn của Đảng, một công việc to lớn có vai trò quan trọng nhằm phát huy nguồn lực con người; yêu cầu này đòi hỏi phải đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục, làm cho giáo dục và đào tạo không chỉ đóng kín trong nhà trường mà còn có thể tiến hành các hoạt động GD&ĐT thông qua nhiều hình thức tổ chức phong phú, linh hoạt, tổ chức đào tạo liên thông, mềm dẻo, tạo điều kiện thuận lợi để mọi người ở mọi lứa tuổi được học thường xuyên, liên tục, suốt đời, đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống. GD&ĐT được tiến hành và tiếp thu bằng nhiều cách khác nhau; xóa bỏ ngăn cách giữa các ngành học và cấp học, giữa giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng đa dạng hóa, chuẩn hóa, liên thông liên kết từ giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp đến cao đẳng, đại học và sau đại học. Tổ chức có hiệu quả thực chất việc phân luồng sau trung học cơ sở và trung học phổ thông. Phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục theo hướng khắc phục các bất hợp lý về cơ cấu trình độ, ngành nghề và cơ cấu vùng miền, gắn nhà trường với xã hội, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng. Ưu tiên phát triển các trường cao đẳng kỹ thuật, công nghệ và các cơ sở giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.

Cơ cấu lại hệ thống giáo dục đáp ứng nhu cầu của đất nước trong giai đoạn mới, tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm tổ chức hệ thống giáo dục tiên tiến trên thế giới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Cơ cấu lại các trình độ đào tạo theo hướng chuẩn hóa (chuẩn quốc gia và chuẩn quốc tế). Cải tiến tín chỉ, đổi mới tuyển sinh, đa dạng hóa phương thức đào tạo, xây dựng các quy chuẩn về liên thông, chuyển tiếp giữa các cấp bậc học, trình độ đào tạo, giữa các cơ sở đào tạo và thực hiện các giải pháp khác hỗ trợ việc điều chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Thứ Ba, đổi mới cơ bản về tư duy, về cơ chế và phương thức quản lý giáo dục theo hướng phân cấp một cách hợp lý nhằm giải phóng và phát huy mạnh mẽ tiềm năng, sức sáng tạo, tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp và mỗi cơ sở giáo dục, giải quyết một cách hiệu quả những bất cập của toàn hệ thống trong quá trình phát triển. Các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo sự phân công của Chính phủ, tập trung làm tốt các nhiệm vụ chủ yếu, như xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển giáo dục; xây dựng cơ chế và quy chế quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo; tổ chức kiểm tra và thanh tra giáo dục,... Cần giảm thiểu việc quản lý còn nặng tính chất sự vụ, bị động và tập trung thái quá trong việc thực hiện các “dự án” giáo dục. Trên cơ sở thể chế hóa vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý giáo dục ở các cấp, các ngành mà thực hiện sự phân cấp quản lý mạnh mẽ cho các bộ, ngành, các địa phương. Hoàn thiện quy chế quản lý hoạt động của các loại hình trường. Giao quyền chủ động cao hơn cho các trường đại học, cao đẳng để tạo điều kiện cho các trường chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo dục, đồng thời chịu trách nhiệm lớn hơn đối với xã hội và nhân dân. Đẩy mạnh phân cấp và góp phần giải quyết có hiệu quả các vấn đề bức xúc; ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục.

Thứ tư, đổi mới căn bản chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng coi trọng phẩm chất và năng lực thực tế. Xây dựng và hiện đại hóa các trường đại học sư phạm trọng điểm, chỉ tập trung vào công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, không đào tạo ngoài ngành sư phạm. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch hóa công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên các cấp, các chuyên ngành ở từng địa phương, từng khu vực và cả nước. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp về kiến thức, kỹ năng quản lý và rèn luyện phẩm chất đạo đức; đồng thời điều chỉnh, sắp xếp lại cán bộ, giáo viên theo yêu cầu mới phù hợp với năng lực và phẩm chất của cán bộ. Thực hiện các chế độ, chính sách nhằm thu hút học sinh giỏi vào học ngành sư phạm và các chế độ, chính sách thực sự ưu tiên, ưu đãi cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Chế độ này cần nâng mức hưởng lương và phụ cấp cho giáo viên đứng lớp lên mức ngang cán bộ quân đội và công an.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý, chú trọng quản lý chất lượng giáo dục. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm định chất lượng và giám sát các hoạt động quản lý giáo dục. Chấn chỉnh, sắp xếp lại hệ thống các trường đại học, cao đẳng; khắc phục tình trạng thành lập mới các trường ở những nơi, những lĩnh vực không đủ điều kiện về đội ngũ cán bộ giảng dạy, về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đầu vào của sinh viên; kiên quyết loại bỏ các trường đào tạo chất lượng kém. Tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường đi đôi với việc hoàn thiện cơ chế dân chủ, công khai, minh bạch, bảo đảm sự giám sát của các cơ quan nhà nước, đoàn thể và xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông trong quản lý giáo dục ở các cấp.

Thứ năm, giữ vững vai trò đạo của Ðảng, sự quản lý của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với việc đổi mới quản lý giáo dục. Các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ và kiểm tra các cơ quan quản lý nhà nước trong việc thể chế hóa các các chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng, đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về giáo dục. Các cấp ủy đảng cần quan tâm làm tốt công tác phát triển Đảng, tăng cường xây dựng và củng cố tổ chức đảng, giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng nền nếp, kỷ cương trong nhà trường; coi việc phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục là một chỉ tiêu phấn đấu xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.

Có thể khẳng định rằng, việc đổi mới quản lý giáo dục sẽ góp phần quyết định vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền GD&ĐT nước ta. Và đổi mới căn bản và toàn diện nền GD&ĐT sẽ góp phần quyết định vào việc “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước nói chung và cho từng ngành, từng lĩnh vực nói riêng, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh”[7]; nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững./.

 PGS, TS KHQS.  Đại tá Trần Nam Chuân,
Viện Chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng


[1]Đảng Cộng ản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng. (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp huyện, tỉnh và tương đương). Lưu hành nội bộ. Tháng 4-2015. tr,35. 

[2] Đảng Cộng ản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng. (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp huyện, tỉnh và tương đương). Lưu hành nội bộ. Tháng 4-2015. tr,35.

[3] Đảng Cộng ản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng. (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp huyện, tỉnh và tương đương). Lưu hành nội bộ. Tháng 4-2015. tr,36.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG. ST, Hà Nội 2011, tr.130–131.

[5] Đảng Cộng ản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng. (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp huyện, tỉnh và tương đương). Lưu hành nội bộ. Tháng 4-2015. tr,36.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG. ST, Hà Nội 2006, tr. 95.

[7]Đảng Cộng ản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng. (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp huyện, tỉnh và tương đương). Lưu hành nội bộ. Tháng 4-2015. tr, 38.

 

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất