Thứ Hai, 23/9/2024
Giáo dục
Thứ Năm, 18/5/2017 16:55'(GMT+7)

Đổi mới giáo dục: Hướng tới một nền giáo dục mở

(Ảnh minh họa)

(Ảnh minh họa)

1. Là bộ phận của kiến trúc thượng tầng, một trong những chức năng quan trọng của giáo dục (GD) là tái sản xuất sức lao động ở một trình độ mới, cao hơn, khéo léo hơn, hiệu quả hơn để thay thế sức lao động cũ bị mất đi. Chính vì thế, từ xưa đến nay, GD luôn vận động, phát triển để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực ngày một cao của xã hội. Mức độ, tính chất, tốc độ vận động, thay đổi của GD tùy thuộc vào mức độ, tính chất, tốc độ phát triển của xã hội trong từng thời kỳ.

Ngày nay, nhân loại đang bước vào nền kinh tế tri thức, theo cơ chế thị trường, xu thế hội nhập và toàn cầu hóa với tốc độ phát triển như vũ bão. Đặc điểm lớn này đòi hỏi GD phải nhanh chóng, liên tục thay đổi toàn diện nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng nhu cầu phát triển mạnh mẽ ấy. Theo đó, mục tiêu GD hiện đại cần chuyển từ trang bị tri thức sang bồi dưỡng năng lực làm trọng, trong đó chủ yếu là năng lực sáng tạo với việc phát hiện, nhận thức và giải quyết kịp thời các vấn đề thực tiễn, lý luận do cuộc sống năng động của nền kinh tế tri thức đặt ra.

Để đào tạo được những con người như vậy, thì nền GD ngày nay phải là một nền GD hết sức linh hoạt về mọi mặt, từ mục tiêu, nội dung, người GD, người được GD đến phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức và cả khâu đánh giá kết quả GD. Hay nói khác đi là cần phải có một nền GD mở. Xu hướng này trái với những khuôn mẫu cứng nhắc của nền GD giáo điều, cổ truyền trước kia của các nền sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cơ khí phát triển chậm chạp, mỗi mẫu mã, quy trình, phương pháp, phương tiện sản xuất tồn tại nhiều chục năm, hàng trăm năm.

Ở thế kỷ XXI, người ta tính rằng, cứ 6 - 7 năm, toàn bộ tri thức nhân loại lại tăng gấp đôi và từ 15 - 20 năm sau khi ra đời, các quy trình công nghệ lại trở nên lạc hậu. Trong bối cảnh đó, GD cần phải đi trước một bước để đón đầu và theo sát sự phát triển XH. Vì vậy, xây dựng một nền GD mở là đòi hỏi cấp thiết của mọi quốc gia trong XH đương đại.

2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế đã nêu lên những quan điểm chỉ đạo như: “Đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới…”; “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ  yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi  đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”; “Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại hoá giáo dục và đào tạo”; “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước”…

Trong những nhiệm vụ, giải pháp được Nghị quyết số 29-NQ/TW nêu lên, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến những tiêu chí như: “Người học là chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục”; “Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người”; “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc…”; “Chú trọng phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng bước tiếp cận trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới”; “Chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo trên cơ  sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo  đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá và thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại”; “Có cơ chế  khuyến khích các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt  động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ ở Việt Nam. Tăng cường giao lưu văn hoá và học thuật quốc tế”…

3. Từ những nhận thức nêu trên, nhìn vào tổng thể nền GD nước ta, theo chúng tôi, về cơ bản, đây vẫn là một nền GD đóng. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi thấy cần quan tâm đến một số vấn đề liên quan đến những thành tố cấu thành các quá trình GD như sau:

Một là, mục tiêu GD. Về lý luận thì mục tiêu tổng quát của cả hệ thống GD nước ta và mục tiêu cụ thể của từng ngành, từng cấp, bậc học được thể chế hóa trong Luật Giáo dục năm 1992. Nhìn chung, các mục tiêu đó đều hướng tới việc đào tạo người học thành người lao động, phát triển toàn diện, "đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Đây là những mục tiêu mang tính “khuôn mẫu”, cơ bản và chung nhất cho nhiều nền GD, không chỉ của nước ta trước đây, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế - xã hội còn có những hạn chế. Song trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, mau lẹ như hiện nay, bên cạnh những mục tiêu cơ bản nêu trên, những công dân tương lai không chỉ đơn thuần là xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ở ngay trong nước, mà còn lao động, học tập, nghiên cứu ở nước ngoài. Vì thế, ngoài tình yêu Tổ quốc và những kiến thức đã được trang bị từ các cấp học ở trong nước, thì người Việt Nam đang học tập, lao động và nghiên cứu ở nước ngoài cần phải được “chuẩn bị sẵn” những kỹ năng và trình độ để có thể thích ứng được với môi trường giáo dục cũng như điều kiện của nước sở tại. Như vậy, mục tiêu GD trong tình hình mới phải phản ánh được xu thế hội nhập, chẳng hạn, bên cạnh việc đảm bảo những kiến thức cơ bản và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, GD cần phải hướng tới trang bị phông kiến thức vững chắc về ngoại ngữ, tin học cho người học.

Trên thực tế, nền GD ứng thí của nước ta lâu này đã tạo ra tâm lý cho người học là học chỉ để thi. Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp THPT và dự thi đại học hằng năm phản ánh rõ điều này. Cùng với đó, việc đặt ra chỉ tiêu tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng cao hơn rất nhiều so với các trường công nhân kỹ thuật, khiến tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” tồn tại nhiều chục năm nay vẫn chưa được khắc phục…

Nền GD mở đòi hỏi phải đa phương hóa các mục tiêu đào tạo, đa dạng các ngành nghề, tạo ra một cơ cấu lao động hợp lý nhằm đáp ứng có hiệu quả nền kinh tế quốc dân và  nhu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Hai là, nội dung GD. Nội dung GD ở nước ta vẫn được thể hiện chủ yếu ở chương trình, nội dung dạy học trong giáo trình và sách giáo khoa. Hầu hết giáo trình và sách giáo khoa của chúng ta hiện nay đang được trình bày đầy đủ theo một hệ thống đóng. Nghĩa là nội dung kiến thức, kỹ năng trong các bài học được coi như “pháp lệnh”, “khuôn mẫu” bất di bất dịch. Điều đó khiến cả người dạy và người học “lười” và ngại phản biện theo những cách tư duy khác và mới, dù tư duy phản biện đó hợp lý, hoàn chỉnh hơn.

Mặt khác, đa số nội dung trong giáo trình và sách giáo khoa của chúng ta  vẫn còn mang nặng tính hàn lâm, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Ấy là chưa kể đến sự lạc hậu, khép kín liên quan đến việc chậm đổi mới, bổ sung theo thời gian…

Nội dung dạy học của nền GD mở cần hướng tới việc giảm thiểu và dần loại bỏ lối tư duy, kỹ năng “đóng khung”; trên cơ sở “cái bất biến” cần phải nâng cao tính gợi mở để người dạy, người học tự xây dựng nội dung kiến thức, kỹ năng cho những vấn đề nghiên cứu theo một quan điểm cấu trúc hệ thống tốt nhất. Đồng thời biết đánh giá, phê phán các kiểu cấu trúc nội dung bài học một cách khoa học theo lô gic vấn đề và theo quan điểm cấu trúc hệ thống hợp lý, tối ưu, toàn vẹn cho vấn đề đó. Nội dung bài học biên soạn theo cách này sẽ phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo của cả người dạy và người học.

Ở các nước phát triển, Nhà nước chỉ quản lý chương trình dạy học, chứ không biên soạn nội dung theo kiểu “bao sân” làm sẵn từ A - Z như ở ta. Nói như vậy không có nghĩa là cách làm của chúng ta là sai, mà cái chính là cần phải có sự thay đổi về phương pháp trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể cho phù hợp với một nền GD mở; trên cơ sở nền tảng và những ưu việt của một nền GD xã hội chủ nghĩa, cần linh hoạt, chủ động tiếp thu những tinh hoa văn hóa tiến bộ của thế giới để hội nhập và phát triển.

Trước sự phát triển của thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ, GD cũng cần phải theo kịp và thích nghi được với những tiến bộ đó. Đòi hỏi đặt ra với một nền GD mở là cần phải có những bổ sung, điều chỉnh trong chương trình dạy học theo một lộ trình từ 7 - 8 năm. Có lẽ, đã đến lúc cần phải đoạn tuyệt với tư duy và ý tưởng biên soạn những bộ giáo trình và sách giáo khoa hoàn chỉnh, ổn định theo kiểu “đóng khung bền vững” - như những giai đoạn trước đây đã từng quan niệm.

Ba là, chủ thể - khách thể GD. Hầu hết các lớp học chính quy của ta lâu nay dường như vẫn trung thành với hình thức lớp - bài. Thầy phải được đào tạo chính ngạch, trò phải có đủ văn bằng, chứng chỉ theo quy định mới được theo học và phải tham gia đầy đủ các buổi lên lớp. Trong khi nền GD mở luôn khuyến khích việc tự học, tự đào tạo. Người dạy, người học trong nền GD mở không quá câu nệ bằng cấp mà coi trọng thực học, thực tài. Một người lao động, nhà quản lý giỏi hay một nhân chứng lịch sử cũng được mời thuyết trình cho học sinh, sinh viên về kinh nghiệm, vốn sống của họ. Thậm chí người học cũng có thể được trình bày kinh nghiệm học tập hay kết quả nghiên cứu của mình trước lớp. Trong quá trình dạy, người dạy nhiều khi cũng học được ở người học những kinh nghiệm, vốn sống riêng, những ý tưởng sáng tạo cho một vấn đề cụ thể. Vị trí giữa người dạy và người học không phải là tuyệt đối. Chủ thể GD trong nền GD mở không chỉ là các nhà GD chuyên trách trong trường, mà còn là các tổ chức đoàn thể quần chúng, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, văn hóa, xã hội, các giáo sư, chuyên gia... Khách thể GD không chỉ là người trong nước, mà còn có cả những sinh viên nước ngoài đến học tập, nghiên cứu văn hóa dân tộc mình theo các hiệp định trao đổi văn hóa, GD để đôi bên hội nhập, hiểu biết lẫn nhau; càng không chỉ dành riêng cho tuổi trẻ mà là mọi lứa tuổi.

Bốn là, phương pháp GD. Nền GD của chúng ta, từ phổ thông đến đại học, lâu nay vẫn sử dụng phương pháp “thuyết trình” “đọc-chép” là chủ yếu; hầu hết người dạy và người học vẫn tiếp cận nội dung bài học ở trạng thái tĩnh; để nắm được nội dung kiến thức, kỹ năng của bài học, cả thầy và trò đều đi theo một lộ trình độc đạo, nhất thể hóa kết quả dạy học. Các sách cho giáo viên, sách thiết kế bài dạy ở phổ thông hiện nay thể hiện rõ điều đó. Cách làm này có ảnh hưởng lớn tới tính chủ thể, sáng tạo, hạn chế tính phát triển của cả người dạy lẫn người học. Nền GD mở, với phương châm biến quá trình học thành tự học, đào tạo thành tự đào tạo, trong đó người dạy luôn tôn trọng tính chủ thể, sáng tạo, lộ trình tiếp cận bài học riêng của người học. Vai trò người dạy ở đây chỉ là cố vấn, trọng tài cho các lộ trình đó.

Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, lộ trình tổng quát của phương pháp dạy học tích cực hiện nay là: Làm cho người học tiếp cận tài liệu học tập ở trạng thái vận động theo hệ thống và phê phán. Lộ trình cụ thể cho việc hình thành một khái niệm cơ bản gồm 5 bước: (1) Phân tích cấu trúc của nội dung khái niệm cơ bản (KNCB); (2) Xác định những thành phần cơ bản nhất trong cấu trúc của KNCB để hiểu dấu hiệu bản chất nhất của KNCB; (3) Diễn đạt KNCB bằng nhiều hình thức cấu trúc khác nhau trên cơ sở nắm vững các thành phần của nội dung KNCB; (4) Xác định góc độ tiếp cận để xây dựng KNCB và đánh giá nội dung KNCB ở góc độ tiếp cận đó; (5) Dùng KNCB làm điểm tựa để đánh giá nội dung kiến thức bài học mà KNCB đó có liên quan, chi phối. Đồng thời tìm hiểu ý nghĩa thực tiễn, lý luận của KNCB.

Bốn là, hình thức tổ chức GD, dạy học. Ở tầm vĩ mô, chúng ta đã có một hệ thống GD Quốc dân hoàn chỉnh với các hình thức đào tạo và hệ thống trường học, tuy nhiên số lượng các trường đạt chuẩn quốc tế hoặc liên doanh với quốc tế còn rất ít, khiến quá trình giao lưu, mở rộng học hỏi với các nước và cạnh tranh quốc tế còn hạn chế, thiếu tính đa dạng. Ở tầm vi mô, hình thức giảng dạy ở mỗi bậc học, cấp học cụ thể vẫn còn hạn chế về tính phong phú, chưa phát huy hết khả năng sáng tạo của người dạy và người học; các hình thức ximina, nghiên cứu thực tế, chuyên đề, thí nghiệm, học theo nhóm - tổ… đa số vẫn còn mang tính hình thức, chiếu lệ; việc hướng dẫn người học tự nghiên cứu bài học trước khi lên lớp phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của phương pháp dạy học tích cực. Việc hướng tới một nền GD mở chính là hướng tới hình thức tổ chức cũng như phương pháp dạy và học phong phú, đa dạng, trong đó đặc biệt đề cao tính độc lập, sáng tạo trên cơ sở nền tảng và mục tiêu đã đặt ra.

Năm là, đánh giá kết quả GD. Việc đánh giá kết quả GD lâu này vẫn là một trong những công việc của ngành GD. Xét ở nhiều khía cạnh thì điều này phần nào còn hạn chế về tính khách quan trong quá trình nhận định, đánh giá.

Đối với nền GD mở, ngoài trách nhiệm của cơ quan chức năng phụ trách về GD, thì việc đánh giá kết quả GD được xã hội hóa cao độ, trong đó có vai trò của các tổ chức GD bên ngoài nhà trường. Do đó, các trường học phải coi những lực lượng GD ngoài nhà trường như những thành viên chính thức, có tư cách pháp nhân, có năng lực để tham gia vào việc đánh giá kết quả GD.

Nội dung đánh giá kết quả GD của chúng ta hiện nay nhìn chung vẫn là nội dung đóng. Các câu hỏi, bài tập kiểm tra, thi cử chủ yếu vẫn bám sát chương trình, nội dung dạy học nhằm kiểm tra trình độ thông hiểu kiến thức, chứ chưa hướng tới việc vận dụng kiến thức để giải quyết những vấn đề thực tiễn, lý luận của cuộc sống năng động đặt ra. Bởi mục tiêu của nền GD hiện đại là đào tạo những con người có khả năng “giải quyết vấn đề gì" chứ không phải là "biết gì", "phải làm gì" hoặc “đúng sách vở” hay không.

4. Đổi mới giáo dục là một đòi hỏi tất yếu không chỉ của riêng nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại và quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của đất nước, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu  của sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.

Trong lộ trình đổi mới GD, trên cơ sở, nền tảng “bất biến”, việc hướng tới một nền GD mở với những phương pháp “vạn biến” để thích ứng với xu thế thời đại là hoàn toàn đúng đắn, khoa học. Nội dung, phạm vi xã hội hóa không chỉ là những vấn đề trong nước mà còn là những vấn đề quốc tế, không chỉ là vấn đề tinh thần mà còn cả vật chất để đa phương hóa nguồn lực. Điều đó đúng với chủ trương, mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, theo đó, đổi mới GD không nằm ngoài việc hướng tới 4 mục tiêu cách mạng mà UNESCO đã nêu lên về sự học là:  (1) Học suốt đời; (2) Học cách học; (3) Học để hiểu, học để làm, học để cùng chung sống và học để làm người; (4) Xây dựng xã hội học - hành./.

Vũ Duy Yên

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất