Giá
trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người về tự
nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái gì là cần, là tốt, là hay,
là đẹp; nói cách khác, đó chính là những cái được con người cho là chân,
thiện, mỹ. Do vậy, giá trị văn hóa là một hình thức của giá trị xã hội,
gắn bó mật thiết với hoạt động sống của con người, sự tồn tại và phát
triển của mỗi xã hội.
Giá
trị văn hóa (cultural value) do con người ở mỗi xã hội nhất định sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử, nhưng một khi hệ giá trị văn hóa đã hình
thành thì nó lại có vai trò định hướng cho các mục tiêu,
phương thức và hành động của con người trong các xã hội ấy. Nó cũng
chính là một thứ vốn xã hội (social capital)(1). Khi đó, giá
trị kết nối con người với nhau thông qua việc cùng chia sẻ giá trị, tạo
nên tình đoàn kết và sức mạnh; đồng thời, cũng có thể tạo nên những biểu
tượng thể hiện những giá trị đó. Những nhân vật lịch sử, như Trần Hưng
Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung... không chỉ là những con người cụ thể, mà
quan trọng hơn, đại diện cho những giá trị mà dân tộc tôn vinh. Như
thế, khi nói bản chất của giá trị hay nói tới vai trò định hướng, chi
phối, điều tiết của hệ giá trị thì về thực chất chúng ta đang nói tới
mối quan hệ đa chiều của con người. Cũng như văn hóa, giá trị được sản
sinh từ các mối quan hệ con người với tự nhiên, với xã hội, với chính cả
con người.
Giá
trị văn hóa của mỗi cộng đồng (tộc người, quốc gia...) bao giờ cũng tạo
nên một hệ thống, với ý nghĩa là các giá trị ấy nảy sinh, tồn tại trong
mối quan hệ, tác động hữu cơ với nhau; giá trị này liên hệ, bổ trợ giá
trị kia. Chúng ta nói hệ giá trị (value system) hay bảng giá trị văn hóa
của mỗi cộng đồng thì thường hàm hai ý nghĩa: Một là, các giá trị riêng lẻ liên kết nhau tạo nên một hệ thống các giá trị; hai là, có
sự sắp đặt trước sau, độ nhấn về tầm quan trọng của từng nhân tố giá
trị trong một bảng giá trị. Ví dụ, với người Việt Nam thì chủ nghĩa yêu nước
là nhân tố hàng đầu trong bảng (hệ) giá trị dân tộc, nhưng với người
Mỹ, Pháp, Đức, Nhật Bản hay một số dân tộc khác thì có thể chủ nghĩa yêu
nước lại được xếp ở các vị trí khác... Thường thì nhiều dân tộc đều có
chung những giá trị, như yêu nước, cần cù, tính cộng đồng..., tuy nhiên,
trong mỗi dân tộc thì việc xếp đặt thứ tự ưu tiên của từng giá trị ấy
trong bảng giá trị có thể khác nhau, tùy vào những điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể.
Tổ
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã đưa ra
một định nghĩa về văn hóa: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng
quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng)
đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng
bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống,
thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc
riêng của mình”(2).
Chiếu chèo ngày xuân. (Nguồn: Nguyễn Thị Thanh /nhiepanhdoisong.vn)
Qua
những định nghĩa trên có thể thấy rằng, yếu tố cốt lõi của văn hóa là
hệ giá trị. Hay nói một cách khái quát thì văn hóa là hệ giá trị chính
thống của một xã hội. Hệ giá trị chuyển thành các chuẩn mực xã hội, từ
đó định hướng sự lựa chọn trong hành động của mỗi cá nhân và cộng đồng.
Hệ giá trị có tính ổn định rất lớn và có tính bền vững tương đối, có sức
mạnh to lớn đối với cộng đồng. Trong sự tiến bộ và phát triển của xã
hội, các giá trị này thường không biến mất mà hóa thân vào các giá trị
của thời sau, theo quy luật kế thừa và tái tạo. Dù vậy, khủng hoảng giá
trị sẽ xuất hiện khi các giá trị cũ chưa mất hẳn, các giá trị mới chưa
định hình rõ ràng. Khủng hoảng giá trị dẫn đến các khủng hoảng khác
trong xã hội, như khủng hoảng kinh tế, giáo dục,... trong gia đình và
nhiều mối quan hệ khác.
Giá
trị văn hóa thường thấm sâu vào trong nhận thức, tư tưởng của con
người, cộng đồng nên có tính chất hướng dẫn các hành vi của con người.
Vì vậy, trong quá trình hình thành và phát triển, mỗi quốc gia, mỗi
vùng, miền và từng tộc người đều hình thành nên những giá trị văn hóa để
tạo ra sự thống nhất về nhận thức và định hướng hành vi cho mỗi cá nhân
và cả cộng đồng. Giá trị văn hóa cũng mang tính tương đối. Vì vậy, đánh
giá về mặt giá trị văn hóa của một sự vật, hiện tượng thì cần phải đặt
trong tọa độ không gian, thời gian và chủ thể văn hóa. Nếu không tính
đến những yếu tố đó, chúng ta rất khó đo đếm, đánh giá được tính giá trị
hay phản giá trị của các hiện tượng xuất hiện trong quá trình hình
thành và phát triển văn hóa của mỗi quốc gia, vùng, miền hay tộc người
nhất định. Ví dụ, “trung với vua” là một giá trị của văn hóa Việt Nam
thời phong kiến, nhưng nó không phải là giá trị trong xã hội Việt Nam
hiện đại khi nước ta không còn tồn tại chế độ quân chủ. Giá trị yêu nước
thể hiện khác nhau ở những nhóm xã hội khác nhau, trong những giai đoạn
lịch sử khác nhau. Làng Việt ở miền Trung dù có nhiều nét giống làng
Việt ở miền Bắc nhưng cũng có nhiều khác biệt theo kiểu quần cư theo
chòm, xóm, thích ứng với duyên hải nhỏ, hẹp(3). Chưa kể tiếp
cận từ phía các cá nhân, điều có ý nghĩa, giá trị với người này chưa
chắc đã có ý nghĩa, giá trị với người khác. Bản thân mỗi người, trong
những giai đoạn, hoàn cảnh nhất định cũng ưu tiên giá trị này hay giá
trị kia.
Trong những hoàn cảnh lịch sử và xã hội cụ thể, mỗi dân tộc đều tồn tại hệ giá trị tổng quát và những hệ giá trị bộ phận.
Hệ giá trị tổng quát bao gồm những giá trị chung nhất, mang tính phổ
quát, có vai trò định hướng đối với tư duy và hành động của cả cộng
đồng. Ví dụ, GS. Trần Văn Giàu đã nêu 7 giá trị mang tính tổng quát nhất
của dân tộc Việt Nam, đó là: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc
quan, thương người, vì nghĩa(4). Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa VIII nêu những đức tính nổi bật của bản sắc Việt Nam, cũng
có thể hiểu đó là các giá trị của con người Việt Nam: Lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn
kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng khoan dung, trọng nghĩa
tình đạo lý, tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng
xử, tính giản dị trong lối sống. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa
XI cũng nhấn mạnh, trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng
con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu
nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Những
thập niên vừa qua, một số ý kiến đưa ra hệ giá trị chung của châu Á:
hiếu học, cộng đồng, cần cù, huyết thống(5). Bên cạnh những
giá trị tổng quát như vậy, trong từng lĩnh vực của đời sống, hoạt động
của con người và từng nhóm xã hội thì người ta lại đúc rút nên các giá
trị, có vai trò định hướng trong từng lĩnh vực riêng lẻ. Ví dụ, Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam đang lựa chọn 4 phẩm chất, đồng thời cũng là 4 giá
trị của phụ nữ Việt Nam hiện đại là: tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm
đang.
Một góc làng cổ Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. (Nguồn: vietnamnet.vn)
Từ
cách tiếp cận quốc gia, giá trị văn hóa góp phần hình thành nên bản sắc
văn hóa dân tộc, một yếu tố cấu thành nên bản lĩnh dân tộc. Nhờ đó, giá
trị văn hóa quốc gia hình thành nên sức mạnh cho đất nước. Quá trình
dựng nước và giữ nước của dân tộc cũng chính là quá trình kết tinh giá
trị văn hóa Việt Nam. Như trên đã trình bày, nếu GS. Trần Văn Giàu đã
đưa ra 7 giá trị phổ quát của dân tộc Việt Nam thì GS. Nguyễn Hồng Phong
cũng cho rằng lòng yêu nước, yêu quê hương là giá trị cơ bản nhất(6),
bên cạnh đó là những giá trị khác, như lòng nhân ái, sự gắn bó cộng
đồng, trọng đạo đức, học thức và yêu cái đẹp. Tuy vậy, GS. Nguyễn Hồng
Phong đã nhìn nhận được giá trị mới, đang hình thành và ngày càng rõ nét
trong xã hội Việt Nam, đó là sự bình đẳng, công bằng xã hội, vai trò
của cá nhân và sự thành đạt. Đây là giá trị mới mẻ đối với một xã hội
Việt Nam phong kiến trước đây. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa
VIII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI của Đảng cũng đưa ra
những đặc trưng thể hiện giá trị văn hóa của đất nước.
Thực
tế, từ lâu, các quốc gia đã xây dựng hệ giá trị văn hóa cho riêng mình.
Ví dụ, thời phong kiến, Trung Quốc đã hình thành hệ giá trị văn hóa dựa
trên mong muốn của con người là ngũ phúc (phúc, lộc, thọ, khang, ninh),
hay dựa trên phẩm chất của con người gồm nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Trong văn hóa Hy Lạp - La Mã xưa thì hệ giá trị đó là chân, thiện, mỹ.
Đặc biệt, trong những giai đoạn biến động của lịch sử, các quốc gia càng
mong muốn định hình hệ giá trị, tạo điều kiện cho sự thống nhất nhận
thức, hành động xây dựng quốc gia. Cách mạng tư sản Pháp (năm 1789) thì
đề cao giá trị tự do, bình đẳng, bác ái. Người Mỹ đề cao các yếu tố như:
sự thành đạt, phù hợp với ngoại cảnh, dân chủ, hoạt động và có công
việc, hướng về đạo đức, nhân đạo, tính hiệu quả và tính thực tế, tiến
bộ, tiện nghi vật chất, bình đẳng, tự do, khoa học và tinh thần hợp lý
thế tục, tinh thần dân tộc và yêu nước, nhân cách cá nhân, các đề tài về
siêu nhiên...(7). Chính những giá trị đó đã góp phần định hướng và làm ổn định xã hội trong khoảng thời gian dài.
Từ
cách tiếp cận vùng, miền có thể thấy, chính từ những đặc điểm riêng có
về tự nhiên, lịch sử, tộc người, quá trình chung sống lâu dài với nhau
đã khiến mỗi vùng, miền có bản sắc riêng và từ đó hình thành những giá
trị khác nhau. Thí dụ, “nước, phân, cần, giống” là hệ giá trị trong canh
tác nông nghiệp truyền thống của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ hay hệ
canh tác “luân canh, hưu canh, xen canh, gối canh” của cư dân canh tác
nương rẫy ở miền núi. Người Mông sinh sống trên cao nguyên đá khô cằn
lại quen thuộc với thổ canh hốc đá... Hay theo GS Trần Ngọc Thêm thì hệ
thống tính cách văn hóa Tây Nam Bộ có 6 đặc trưng: tính sông nước, tính
trọng nghĩa, tính bộc trực, tính bao dung, tính thiết thực và tính mở
thoáng(8); hay đặc trưng tính cách người Hà Nội xưa là trọng
học vấn, trọng nhân cách, trọng bản lĩnh khí tiết, trọng tài hoa, trọng
tình cảm, đa tình(9).
Từ
cách tiếp cận tộc người, giá trị văn hóa của mỗi tộc người cũng có sự
khác biệt, trước tiên thông qua các biểu tượng văn hóa. Mỗi biểu tượng
đều chứa đựng các giá trị nhất định. Đối với người Việt Nam từ xưa tới
nay, các Vua Hùng là một biểu tượng thiêng liêng của dân tộc, mang giá
trị văn hóa đặc sắc của dân tộc, thể hiện tâm thức “hướng về cội nguồn”,
“uống nước nhớ nguồn”, tinh thần cố kết dân tộc, tạo nên sức mạnh lớn
lao của toàn dân tộc trong các cuộc đấu tranh chống thiên tai và địch
họa. Thánh Gióng lại là biểu tượng chứa đựng giá trị tinh thần chống
giặc ngoại xâm, là ý chí vươn lên mạnh mẽ của dân tộc. Sơn Tinh là biểu
tượng thể hiện giá trị tinh thần chinh phục thiên nhiên, bảo vệ và mở
mang đất nước. Trong khi đó, giá trị văn hóa của các tộc người thiểu số
Việt Nam là những thành tố văn hóa được biểu tượng hóa hết sức sinh động
trong các sinh hoạt tín ngưỡng, như then Tày, mo Mường, tục ăn trâu của
một số tộc người ở Tây Nguyên, lễ hội Ka-tê của người Chăm... Giá trị
văn hóa được thể hiện qua những phương tiện thực hành tín ngưỡng, như
đàn lễ, tranh thờ, đạo cụ, nghệ thuật trang trí, biểu tượng vàng mã,
trang phục, nhạc cụ, sách cúng, vật lễ, ẩm thực... kết tinh trong các
hình thức diễn xướng phục vụ tín ngưỡng, như hát múa, âm nhạc, thể hiện ở
lời kinh, lời giáo huấn, các luật lệ, phép tắc đối với người thực hành
nghi lễ và cả cộng đồng.
Vũ điệu cồng chiêng Tây Nguyên (Nguồn: Nguyễn Duy Tưởng/ vapa.org.vn)
Tuy
có sự khác biệt như vậy, nhưng giá trị văn hóa từ cách tiếp cận quốc
gia, vùng, miền hay tộc người đều có sự thống nhất trong đa dạng, theo
đó, các giá trị của các cộng đồng nhỏ luôn tôn trọng các giá trị của
cộng đồng lớn. Sự thống nhất trong đa dạng các giá trị này vừa tạo ra
những sắc thái văn hóa phong phú, hấp dẫn, góp phần hình thành nên “tài
sản văn hóa”, từ đó tạo ra những lợi thế trong phát triển kinh tế - xã
hội của từng vùng, miền, vừa bảo đảm sự ổn định của văn hóa quốc gia, sự
phát triển bền vững của đất nước.
Như
vậy, có thể khẳng định, giá trị văn hóa là sản phẩm của con người, phụ
thuộc vào sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa mỗi thời
đại, giúp định hướng mục tiêu, phương thức hành động của mỗi con người
và giúp điều tiết sự phát triển chung của cả xã hội. Từ chiều cạnh giá
trị quốc gia, vùng, miền, tộc người, việc xây dựng giá trị văn hóa cần
phải kết hợp giữa bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống kết
hợp với lựa chọn tiếp thu tinh hoa giá trị văn hóa thế giới, phù hợp với
bối cảnh phát triển đất nước. Cần chấp nhận thực tiễn rằng, sự phát
triển của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế và ảnh
hưởng của các phương tiện truyền thông mới sẽ tác động rất mạnh mẽ đến
giá trị văn hóa ở các phương diện quốc gia, vùng, miền, tộc người, theo
đó, một số giá trị văn hóa cũ sẽ mất đi, một số giá trị mới sẽ dần định
hình. Trong quá trình đó, sẽ có những giai đoạn khủng hoảng giá trị ở
quy mô quốc gia, vùng, miền và tộc người, dẫn đến những tác động tiêu
cực đối với xã hội. Nhận thức được tính quy luật của sự hình thành và
phát triển giá trị văn hóa, với nước ta hiện nay, cần có các biện pháp
khắc phục những tác động tiêu cực này, thông qua đó, các giá trị văn hóa
Việt Nam, với giá trị cốt lõi chân - thiện - mỹ, sẽ giúp khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đồng thời định hướng,
điều tiết sự phát triển bền vững của xã hội. Bên cạnh đó, cần xây dựng
giá trị văn hóa quốc gia - gia đình - con người Việt Nam trong thời kỳ
mới, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước và hội nhập quốc tế./.
PGS. TS. BÙI HOÀI SƠN
Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội
___________________
(1) Xem: Ngô Đức Thịnh: Tiếp cận nghiên cứu nông thôn Việt Nam từ mạng lưới xã hội và vốn xã hội, Tạp chí Dân tộc học, số 4/2008.
(2) Ủy ban Quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa: Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Bộ Văn hóa - Thông tin, H, 1992, tr.23.
(3) Xem: Lâm Bá Nam: Nghiên cứu tộc người ở Việt Nam: Văn hóa và phát triển, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020, tr.69.
(4) Xem: Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, H, 1980.
(5) Xem: Hồ Sĩ Quý: Về giá trị và giá trị châu Á, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006.
(6) Xem: Nguyễn Hồng Phong: “Văn hóa và phát triển”, in trong sách Những vấn đề văn hóa Việt Nam hiện đại, Lê Quang Trang - Nguyễn Trọng Hoàn tuyển chọn và giới thiệu, Nxb. Giáo dục, H, 1999.
(7) Xem: Ngô Đức Thịnh: Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nxb. Khoa học xã hội, H, 2010, tr.24.
(8), (9) Trần Ngọc Thêm: Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng (tái bản có sửa chữa), Nxb. Văn hóa - Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2014, tr.226, 211.
(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)