Chúng
ta đều đã biết, Văn hoá là một phạm trù rất rộng, có thể được hiểu dưới
nhiều góc độ khác nhau với nhiều cách tiếp cận khác nhau, rất phong
phú, đa dạng. Đến nay, trên thế giới có tới gần 200 định nghĩa khác nhau
về Văn hoá. Nhưng chung quy có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Nghĩa rộng: thì văn hoá là trình độ phát triển về
tinh thần và vật chất của nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định (thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng,... văn hoá Đông Sơn, văn hoá lúa
nước,...). Nghĩa hẹp: thì văn hoá là những hoạt động tinh thần
của một xã hội, gồm có những lĩnh vực: giáo dục, khoa học, văn học, nghệ
thuật, đạo đức (lối sống, cách cư xử, ứng xử giữa người với người,...).
Văn hoá cũng bao gồm cả văn hoá vật thể (các di tích lịch sử, các công trình văn hoá, di sản văn hoá, những sản phẩm văn hoá: Kim tự tháp, đình, chùa, miếu thờ,...) và phi vật thể (ca
dao, dân ca, hò vè, lễ hội; các phong tục, tập quán của mỗi quốc gia,
mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, mỗi địa phương...). Văn hoá chúng ta bàn ở
đây chủ yếu là theo nghĩa hẹp.
Nhưng
dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì khi đã nói đến văn hoá là nói đến
những gì là tinh hoa, tinh tuý nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc
thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn,
nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ (một con người có văn hoá, một
gia đình có văn hoá, một dân tộc có văn hoá; lối sống văn hoá, nếp sống
văn hoá, cách ứng xử có văn hoá,...). Còn những gì xấu xa, việc làm ti
tiện, đớn hèn, những hành động phi pháp, bỉ ổi... là vô văn hoá, phi văn
hoá, phản văn hoá. Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều
tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được
sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng.
Việt
Nam là một đất nước có hơn 4 nghìn năm lịch sử, trải qua không biết bao
nhiêu sự biến đổi, thăng trầm do thiên nhiên và con người gây ra, đã
tích luỹ, tạo ra và phát huy được nhiều giá trị, bản sắc văn hoá riêng
của Dân tộc, làm nên hồn cốt của Dân tộc; đồng thời tiếp thu và góp phần
đóng góp vào nền văn hoá chung của nhân loại. Nhận thức sâu sắc được vị
trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hoá trong sự phát triển
của đất nước ta, dân tộc ta, cho nên ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng năm 1930, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề phải phát triển
văn hoá của dân tộc; và năm 1943, khi nước nhà còn chưa giành được độc
lập, Đảng ta đã đề ra "Đề cương văn hoá Việt Nam", trong đó chỉ
rõ "Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn
hoá)", và chủ trương phát triển văn hoá theo ba hướng: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng. Những
quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Văn kiện quan trọng này đã
tạo ra một luồng sinh khí mới để tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ,
tập hợp nhân dân phát huy vai trò của văn hoá, thống nhất về nhận thức,
tư tưởng và tổ chức, khơi dậy khát vọng của dân tộc trong cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc, chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho cách
mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, năm 1945.
Trong cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược, với khẩu hiệu "Văn hoá hoá kháng chiến, kháng chiến hoá văn hoá", "xây dựng đời sống mới", văn
hoá Việt Nam đã thực sự trở thành động lực tinh thần để huy động tất cả
mọi nguồn lực cho cuộc kháng chiến, góp phần quan trọng làm nên chiến
thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", năm 1954.
Sau
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cả nước ta đã tập trung vào thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
đấu tranh giành thống nhất nước nhà, Đảng ta đã thường xuyên quan tâm
đến công tác văn hoá, động viên và cổ vũ đội ngũ văn nghệ sĩ và những
lực lượng làm công tác văn hoá phát huy vai trò của mình trong việc xây
dựng và phát triển nền văn hoá mới, con người mới. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III của Đảng năm 1960 đã xác định mục tiêu của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa về văn hoá và áp dụng những nhận thức đó vào việc
xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, thiết thực, phục vụ sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao không ngừng đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Đảng ta đã nhấn mạnh đến công tác phát
triển nền văn nghệ, báo chí, xuất bản, truyền thanh, điện ảnh, thư viện,
bảo tồn bảo tàng, nâng cao tính tư tưởng, tính chiến đấu, tính quần
chúng của các công việc đó. Đồng thời, Đảng ta cũng đã đặc biệt quan tâm
đến công tác văn hoá quần chúng, xây dựng các hoạt động và các thiết
chế văn hoá ở cơ sở, nâng cao dân trí, xây dựng đời sống văn hoá mới,
cải tạo các thói quen và nếp sống cũ, xây dựng thói quen và lối sống
mới.
Sự
lãnh đạo của Đảng trong suốt thời kỳ từ năm 1960 đến năm 1975 đã góp
phần phát huy vai trò của văn hoá Việt Nam thực hiện nhiệm vụ vừa kiến quốc, vừa kháng chiến, huy
động được các binh chủng, các lực lượng làm công tác văn hoá của toàn
dân tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giành Đại thắng
mùa xuân năm 1975, thống nhất Tổ quốc, thu giang sơn về một mối. Lời kêu
gọi thiết tha, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thà hy sinh tất
cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!
Không có gì quý hơn độc lập, tự do!"; "Nước Việt Nam là một, Dân tộc
Việt Nam là một! Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không
bao giờ thay đổi!" đã trở thành lẽ sống thiêng liêng của mỗi người
dân Việt Nam, là hồn cốt thiêng liêng của Văn hoá Việt Nam!; "Giặc đến
nhà đàn bà cũng đánh!"; thậm chí "Còn cái lai quần cũng đánh!" (chị Út
Tịch). Đồng thời: "Đạp quân thù xuống đất đen, súng gươm vứt bỏ lại hiền
như xưa!".
Đại
hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đánh giá rất cao về những đóng góp
của ngành văn hoá, văn học nghệ thuật Việt Nam trong sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ cứu nước và khẳng định: Nền văn hoá, văn nghệ nước ta
xứng đáng đứng vào "Vị trí tiên phong của nền văn hoá văn nghệ chống đế quốc, phong kiến trên phạm vi toàn thế giới trong thời đại ngày nay".
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta chẳng những là Lãnh tụ thiên
tài, Người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Người chiến sĩ lỗi lạc
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà còn là Nhà văn hoá kiệt xuất, được thế giới phong tặng danh hiệu vẻ vang "Danh nhân văn hoá thế giới"! (cùng với Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Chu Văn An và mới hôm qua có thêm: Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương).
Từ
năm 1975 đến năm 1985 là giai đoạn bản lề chuyển từ chiến tranh sang
hoà bình, đất nước ta phải khắc phục hàng loạt những hậu quả của chiến
tranh, khôi phục lại các cơ sở kinh tế, văn hoá, giáo dục bị tàn phá;
thống nhất về thể chế và thiết chế văn hoá trên phạm vi cả nước. Đồng
bào cả nước đã đồng cam, cộng khổ, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng để vượt qua những thách thức do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội và tình hình phức tạp của quốc tế lúc đó gây ra.
Bước
vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
chúng ta đã tiến hành đổi mới đồng bộ và toàn diện các lĩnh vực của đời
sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, xã hội, an ninh, quốc
phòng và đối ngoại. Riêng về lĩnh vực văn hoá, Đảng ta đã có nhiều nghị
quyết, quyết định, chỉ thị rất quan trọng để tập trung xây dựng và phát
triển văn hoá trong thời kỳ mới. Trên cơ sở tổng kết những thành tựu đã
đạt được về lĩnh vực văn hoá những năm đầu thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã
ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII năm 1998 về
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Đây là những nghị quyết có ý nghĩa chiến lược về phát triển văn
hoá Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Đảng ta đã chọn 8 lĩnh vực để tập trung chỉ đạo, trong đó quan
trọng nhất là vấn đề xây dựng con người với trọng tâm là xây dựng tư
tưởng, đạo đức, lối sống và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã xác định, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng. Cương lĩnh (bổ
sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa
dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá
gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Tiếp đó là Nghị quyết số 33 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá XI năm 2014 về
xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước. Trong Nghị quyết này, Đảng ta tiếp tục
khẳng định những quan điểm, nhiệm vụ mà Nghị quyết Trung ương 5 khoá
VIII đã nêu; đồng thời bổ sung, nhấn mạnh một số vấn đề mới, khẳng định
mục tiêu, vai trò, nhiệm vụ của văn hoá.
Về mục tiêu chung, Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng nền văn hoá Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, tính nhân văn, dân chủ và khoa học; làm cho văn hoá phải thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo
đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Đảng ta nhấn mạnh, văn
hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; làm rõ đặc trưng của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; nhấn mạnh trọng tâm của việc xây dựng văn hoá là xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp… Trong Nghị quyết này, Đảng ta đã xác định một số nhiệm vụ mới là xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế; phát triển các ngành công nghiệp văn hoá và
hoàn thiện thị trường văn hoá. Bộ Chính trị khoá XII đã ban hành Kết
luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Nhắc
lại một cách vắn tắt như vậy để muốn khẳng định rằng: Từ ngày thành lập
đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vai trò của văn hoá và hết sức
quan tâm đến công tác xây dựng văn hoá trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Nhận thức của Đảng về văn hoá ngày càng toàn diện, đầy đủ
và sâu sắc hơn. Đảng ta xác định: Văn hoá là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng
để phát triển đất nước; xác định phát triển văn hoá đồng bộ,
hài hoà với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn
bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Nói sâu sắc, ngắn gọn như Bác Hồ là: "Văn hoá soi đường cho quốc dân đi"! Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với
nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần của xã hội; kế thừa những truyền thống văn hoá tốt đẹp của Dân
tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hoá của
thế giới, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích
chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể
lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Đồng thời, Đảng ta khẳng
định: Con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát
triển; phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa
học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong
những vấn đề sống còn, là tiêu chí của phát triển bền vững; xây dựng gia
đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội,
thực hiện bình đẳng giới là một tiêu chí của tiến bộ, văn minh.
Đảng ta khẳng định: Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hoá là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh;
chú trọng mối quan hệ giữa văn hoá và chính trị, văn hoá và kinh tế;
xây dựng văn hoá trong Đảng và trong hệ thống chính trị; xây dựng văn
hoá công chức, văn hoá công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng
sự nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đảng ta cũng đã xác định, chủ thể
xây dựng và phát triển văn hoá là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng; nhấn mạnh đến phát huy tối đa các nguồn lực từ Nhà nước và xã hội, từ trong nước và nước ngoài để phát triển văn hoá.
Như
vậy, nhận thức của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hoá trong thời
kỳ đổi mới đã từng bước được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn
thiện, toàn diện và sâu sắc hơn. Đây là tiền đề rất cơ bản để chúng ta
quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện trong thực tế.
Nhìn
lại những thành tựu trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hoá Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là trong 35 năm đổi mới gần đây,
chúng ta có quyền tự hào về những đóng góp to lớn của nền văn hoá vào
sự nghiệp cứu quốc và kiến quốc. Những thành tựu nổi bật cần khẳng định
là nhận thức về văn hoá ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh
vực, các loại hình; các sản phẩm văn hoá ngày càng đa dạng, phong phú,
đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hoá truyền
thống và di sản văn hoá của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển.
Văn hoá trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và
phát huy hiệu quả, tích cực. Công nghiệp văn hoá và thị trường văn hoá
có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có
bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở
thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đấu
tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan
điểm, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hoá, lối sống được chú trọng.
Nhiều tấm gương sáng trong phong trào thi đua yêu nước, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" đã
được biểu dương, lan toả vào đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân
dân đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá nói riêng, xây dựng và phát
triển đất nước nói chung.
Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng cần nhìn
thẳng vào những hạn chế, tồn tại, bất cập, yếu kém trên lĩnh vực văn
hoá, tìm ra nguyên nhân và giải pháp để khắc phục. Hạn chế, yếu kém nổi
bật được nhắc lại nhiều lần lâu nay là văn hoá chưa được các cấp, các
ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ
tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực,
động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn
hoá trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều
hướng nặng về chức năng giải trí. Phát triển các lĩnh vực văn
hoá chưa đồng bộ, còn phiến diện, nặng về hình thức, chưa đi vào chiều
sâu, thực chất. Thiếu những tác phẩm văn hoá, văn học, nghệ thuật lớn,
tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích
cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người. Môi trường văn
hoá vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Sự chênh
lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, các miền còn lớn. Đời sống văn
hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới
và hải đảo còn không ít khó khăn. Nhiều di sản văn hoá quý báu của dân
tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong. Công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hoá còn lúng túng, chậm trễ, nhất là
trong việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về
văn hoá. Đầu tư cho văn hoá chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa
cao… Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn
hoá chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn hoá trong thời kỳ mới. Công
tác giới thiệu, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước ngoài chưa mạnh; tiếp
nhận tinh hoa văn hoá nhân loại còn hạn chế; chưa coi trọng đúng mức và
có biện pháp tích cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn
hoá tốt đẹp, đặc sắc của dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một
cách nhố nhăng, phản cảm, không có chọn lọc (nói nặng ra là "vô văn
hoá", "phản văn hoá").
Những
yếu kém, bất cập nêu trên chậm được giải quyết mặc dù đã được nhắc đi,
nhắc lại trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng. Sự yếu kém, khuyết
điểm này đã gây hệ luỵ, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã
hội, đến xây dựng con người và môi trường văn hoá của chúng ta.
Những
hạn chế, khuyết điểm nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan,
trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Đặc biệt là trong công tác
lãnh đạo, quản lý, chúng ta chưa nhận thức thật đầy đủ, sâu sắc và toàn
diện về đường lối văn hoá của Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện
nay. Phương thức lãnh đạo và quản lý văn hoá chậm được đổi mới, chưa
thích ứng kịp thời với sự vận động và phát triển văn hoá trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Việc thể chế
hoá và tổ chức thực hiện đường lối văn hoá của Đảng còn thiếu đồng bộ,
quyết liệt, hiệu quả. Công tác tổ chức và công tác cán bộ trên lĩnh vực
văn hoá còn nhiều bất cập. Trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, các tổ chức
trong hệ thống chính trị, của đội ngũ cán bộ, đảng viên đối với việc
lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hoá chưa cao. Chúng ta cần phân tích
sâu sắc các nguyên nhân này để tìm cách khắc phục, nhằm đẩy mạnh hơn nữa
việc chấn hưng và phát triển nền văn hoá Việt Nam trong thời gian tới.
Với
tầm nhìn từ nay cho đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, nền văn hoá Việt Nam cũng đang đứng trước những thời cơ và thách
thức mới. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 35 năm đổi
mới vừa qua đã tạo nên thế và lực mới, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc
gia, uy tín quốc tế; niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo
ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Với tất cả sự
khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Đây là một lợi thế cực kỳ to lớn để chúng ta tăng cường lòng tự hào dân
tộc, quyết tâm đổi mới và chấn hưng văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới.
Mặt khác, những thiếu sót, khuyết điểm trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng văn hoá vừa qua cũng là những rào cản lớn đối với
phát triển văn hoá. Sự tác động của quá trình toàn cầu hoá, cạnh tranh
quốc tế và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng cũng sẽ diễn
ra quyết liệt, phức tạp hơn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công
nghệ số, xã hội số, văn hoá số,... vừa đem lại những cơ hội, vừa tạo ra
thách thức mới trong việc xây dựng và phát triển văn hoá. Đồng thời,
chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức của an sinh truyền thống,
an sinh phi truyền thống, nhất là sự biến đổi khí hậu và dịch bệnh,
trước hết là đối phó, thích ứng và sống cùng đại dịch Covid-19, vừa bảo
vệ sức khoẻ nhân dân, vừa phát triển kinh tế - xã hội.
Đứng
trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp
cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là "nền tảng tinh thần", "động lực phát triển", và "soi đường cho quốc dân đi";
phát huy giá trị văn hoá và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện
thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.
Có thể nói, phát triển văn hoá là một trong những vấn đề trọng tâm, một nội dung nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây là lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội Đảng, Đảng ta đề cập một cách toàn diện và sâu sắc đến lĩnh vực văn hoá,
từ chủ đề Đại hội đến các quan điểm, mục tiêu, định hướng lớn, nhiệm vụ
trọng tâm, đột phá chiến lược. Văn kiện Đại hội đã nhấn mạnh một trong
những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt là: "Khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị, của nền văn hoá và con người Việt Nam,... kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại
lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan
trọng nhất".
Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hoá của dân tộc, chúng ta cần tập trung thực hiện thật tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Một là, khơi
dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn
kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân
tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hoá, sức mạnh và tinh thần cống
hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá
để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030,
tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Hai là, xây
dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những
giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình
Việt Nam, hệ giá trị văn hoá, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp
nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hoá gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.
Ba là, phát
triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, môi trường văn hoá,
đời sống văn hoá: Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống,
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu
quả sáng tạo các giá trị văn hoá mới. Xây dựng môi trường văn hoá lành
mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu,
cái ác, phi văn hoá, phản văn hoá; bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ.
Nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân; xây dựng đời sống văn hoá vui
tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát
triển và hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền của đất nước.
Bốn là, phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hoá là nhân dân;
tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hoá, của người dân, các
dân tộc, các vùng, miền; phát triển các phong trào văn hoá sâu rộng,
thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của nhân
dân, bảo đảm sự công bằng. Đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội
ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hoá.
Năm là, chú
trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hoá, về đạo đức; kiên
quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ
thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu
cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam. Xây dựng văn hoá trong
lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nâng cao vai trò, năng lực
lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự tham gia tích cực
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp
phát triển văn hoá.
Sáu là, xây
dựng môi trường văn hoá số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và
công dân số, làm cho văn hoá thích nghi, điều tiết sự phát triển bền
vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn
trương phát triển các ngành công nghiệp văn hoá, xây dựng thị trường văn
hoá lành mạnh.
Để
chấn hưng và phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam theo
phương hướng nói trên, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung thực
hiện một cách quyết liệt và có hiệu quả một số giải pháp sau:
Trước hết là tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá để
đáp ứng yêu cầu phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam trong
thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây
dựng, phát triển văn hoá từ trung ương đến cơ sở. Cấp uỷ đảng và chính
quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm,
tư tưởng chỉ đạo của Đảng về Văn hoá và trên cơ sở đó xây dựng các
chương trình, kế hoạch thực hiện, huy động tối đa các nguồn lực để phát
triển văn hoá. Khắc phục tư tưởng "duy kinh tế", chỉ tập trung cho kinh
tế mà ít quan tâm đến văn hoá. Phải quán triệt nghiêm túc quan điểm "văn hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội".
Đại hội XIII của Đảng vừa qua đã xác định: Chiến lược phát triển tổng
thể của đất nước ta trong thời gian tới là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững; bảo đảm gắn kết chặt
chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế
là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền
tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Đây
là quan điểm chỉ đạo rất cơ bản cần phải được triển khai thực hiện
nghiêm túc, quyết liệt trong nhiệm vụ của các ngành, các cấp.
Đối
với công tác quản lý nhà nước, cần sớm khắc phục tình trạng chậm thể
chế hoá đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các
chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hoá, xây dựng con người.
Đẩy mạnh công tác sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý văn hoá từ trung
ương đến cơ sở. Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách phù hợp, chú ý
đến tính đặc thù của hoạt động văn hoá, nghệ thuật. Nâng mức đầu tư một
cách hợp lý từ nguồn ngân sách nhà nước, đồng thời khơi thông các nguồn
lực xã hội, nguồn lực trong nước và nước ngoài cho phát triển văn hoá.
Trong quá trình đa dạng hoá các hoạt động văn hoá, Nhà nước cần chú
trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hoá cách mạng để làm nòng cốt và
dẫn dắt, truyền cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn,
tình cảm trong sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần
của xã hội.
Thứ
hai là xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn
hoá tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển văn hoá Việt Nam trong
giai đoạn mới; sớm khắc phục tình trạng chắp vá, tuỳ tiện trong bố
trí cán bộ làm công tác văn hoá, ở cả trung ương và địa phương. Đảng ta
đã nhiều lần nhấn mạnh: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Công tác
lãnh đạo và quản lý văn hoá không chỉ đòi hỏi có phẩm chất chính trị mà
còn phải có trình độ chuyên môn, am hiểu đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ,
có tầm nhìn sâu rộng, có khả năng vận động và thuyết phục các tầng lớp
nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển văn hoá. Đặc biệt
chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ làm công tác văn hoá, văn học, nghệ thuật.
Đội ngũ này có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp văn hoá nói
riêng và trong sự nghiệp cách mạng nói chung. Bác Hồ đã từng căn dặn:
"Để làm trọn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện
đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ
khiêm tốn; phải thật sự hoà mình với quần chúng, cố gắng học tập chính
trị, trau dồi nghề nghiệp" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10,
trang 647). Đổi mới chính sách đãi ngộ, sử dụng đối với đội ngũ văn nghệ
sĩ và những người làm công tác văn hoá. Tôn vinh tài năng và cống hiến
của họ cho sự phát triển văn hoá nước nhà. Bên cạnh việc tập trung nâng
cao đời sống văn hoá ở cơ sở, cần phải chú trọng xây dựng và phát triển
văn hoá đỉnh cao, phấn đấu có nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn
hoá, nghệ thuật, có những tác phẩm tầm cỡ, phản ánh được sâu sắc hiện
thực đổi mới vĩ đại của đất nước, có ý nghĩa tích cực trong việc xây
dựng nền văn hoá và con người Việt Nam hiện nay.
Thứ
ba là quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá
trị văn hoá dân tộc, các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của các
vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa
văn hoá của thời đại. Phát triển "sức mạnh mềm" của văn hoá Việt Nam,
góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong thời gian tới. Hiện
nay, cả nước ta có tới 166 bảo tàng, trong đó có 4 bảo tàng quốc gia với
hơn 3 triệu hiện vật; 3.486 tổng di tích được xếp hạng quốc gia, trong
đó có 1.626 di tích lịch sử; 105 di tích quốc gia đặc biệt; 288 di sản
văn hoá phi vật thể quốc gia (riêng Hà Nội có 21 lễ hội); 27 di sản văn hoá vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận là "di sản văn hoá thế giới" (riêng tỉnh Bắc Ninh đã có 2 di sản văn hoá thế giới là Dân ca quan họ và Ca trù)...
Đó là một tài sản vô cùng quý báu do Tổ tiên, Cha ông ta mấy nghìn năm
để lại, không phải nơi nào cũng có được; chúng ta có trách nhiệm phải
giữ gìn, trân trọng và phát huy. Nếu không là chúng ta có tội với lịch
sử, là vong ân bội nghĩa với Tổ tiên, Cha ông chúng ta. Bác Hồ trước lúc
đi xa vẫn còn dặn lại rằng: "Muốn yêu Tổ quốc mình thì phải yêu những
khúc hát Dân ca!" (Nhạc sĩ Trần Hoàn với bài hát rất xúc động "Lời Bác
dặn trước lúc đi xa"; "Giữa Mạc Tư Khoa tôi nghe câu hò ví dặm").
Thứ
tư là chú trọng xây dựng văn hoá ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát
huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã
hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình
nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội ("Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
người trong một nước phải thương nhau cùng"; "Bầu ơi thương lấy bí cùng,
tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"; "Thương người như thể thương
thân"; "Lá lành đùm lá rách"; "Lá rách ít đùm lá rách nhiều"; "Một con
ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ"; "Kính lão đắc thọ"; "Kính già, già để
tuổi cho"; "Anh em như thể chân tay"; "Kính trên nhường dưới"; "Vợ ta
đói rách ta thương, vợ người áo gấm xông hương mặc người"; "Thuận vợ
thuận chồng tát biển Đông cũng cạn; Thuận bè thuận bạn tát cạn biển
Đông"; "Đói cho sạch, rách cho thơm"; "Thật thà là cha quỷ quái"; "Tôn
sư trọng đạo"; "Lời chào cao hơn mâm cỗ"; "Mua danh ba vạn, bán danh ba
đồng"; giữ lấy "nếp nhà", giữ lấy "Chân quê" (bài thơ của Nguyễn Bính năm 1936); giữ lấy tình nghĩa thuỷ chung son sắt (bài thơ "Việt Bắc" của
nhà thơ Tố Hữu năm 1954)... Xây dựng các quy tắc ứng xử văn minh trong
các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, nhất là trong không gian mạng,
trong giới văn nghệ sĩ v.v…
Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực; chống sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "quét sạch chủ nghĩa
cá nhân", nguồn gốc của mọi sự tham nhũng, tiêu cực, hư hỏng ngay trong
các ngành văn hoá, các cơ quan làm công tác văn hoá. Chú trọng thực
hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 các khoá XI, XII và đặc biệt là các Kết
luận, quyết định của Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII của Đảng mới đây về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị./.
NGUYỄN PHÚ TRỌNG
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
_________________________
(*) Tạp chí Tuyên giáo lược đăng lại bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, do Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức ngày 24/11/2021.