Thứ Ba, 24/9/2024
Môi trường
Chủ Nhật, 28/8/2011 22:7'(GMT+7)

Giải pháp tổng thể để thích ứng và giảm tác động của biến đổi khí hậu

Mực nước biển ở Việt Nam có thể dâng thêm 100 cm vào cuối thế kỷ 21. Ảnh minh họa

Mực nước biển ở Việt Nam có thể dâng thêm 100 cm vào cuối thế kỷ 21. Ảnh minh họa

 

Thách thức do BĐKH

BĐKH với hai biểu hiện là nhiệt độ tăng và mực nước biển dâng, hiện đang là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại. BĐKH sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hệ thống kinh tế - xã hội, đe dọa an ninh sinh thái, an ninh lương thực, an ninh kinh tế của các nước. Các công trình hạ tầng được thiết kế theo các tiêu chuẩn hiện tại sẽ khó an toàn và đảm bảo thực hiện đầy đủ các chức năng dưới tác động của BĐKH. Tác động do BĐKH gây ra đối với toàn cầu là rất lớn. Tất cả các nước, không phân biệt nước phát triển hay nước đang phát triển, đều phải chịu tác động của BĐKH. Trong những năm gần đây, ngay cả những nước giàu cũng phải chịu những thiệt hại ngày càng tăng do các hiện tượng thời tiết cực đoan như lũ lụt, hạn hán, bão lũ gây ra. Theo báo cáo của nhà kinh tế học Nicholas Stern công bố năm 2007, đến giữa thế kỷ này sẽ có 200 triệu người trên trái đất bị mất nhà cửa vĩnh viễn do hạn hán, lũ lụt và mực nước biển dâng; 1/6 dân số thế giới có thể bị thiếu nước, nghiêm trọng hơn, 40% các loài có khả năng sẽ bị tuyệt chủng, và thế giới sẽ thiệt hại từ 5-20% GDP mỗi năm.

Việt Nam với đường bờ biển dài và các khu dân cư, kinh tế tập trung chủ yếu ở vùng ven biển và hai đồng bằng lớn: sông Hồng và sông Cửu Long, được coi là một trong những nước đặc biệt dễ bị tổn thương bởi tác động của BĐKH. Các nghiên cứu do Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp thực hiện với các cơ quan có liên quan đã cho thấy, trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam đã tăng khoảng 0,5oC, mực nước biển đã dâng khoảng 20cm. Các hiện tượng El Nino và La Nina đang ngày càng tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Theo kịch bản, BĐKH và mực nước biển dâng sẽ làm cho khí hậu trên tất cả các vùng của Việt Nam có nhiều biến đổi. Đến cuối thế kỷ này, nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam sẽ tăng khoảng từ 2 đến 3oC; tổng lượng mưa hằng năm và lượng mưa mùa mưa tăng, trong khi đó lượng mưa mùa khô lại giảm; mực nước biển có thể dâng khoảng từ 0,75m đến 1m so với trung bình thời kỳ 1980-1999. Theo đó, diện tích bị ngập của đồng bằng sông Cửu Long từ 20% đến 40%, của đồng bằng sông Hồng là 11%, đe dọa an ninh lương thực không chỉ đối với hơn 86 triệu người dân Việt Nam, mà còn hàng trăm triệu người trên thế giới. Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa lớn nhất cả nước sẽ bị ngập 20% diện tích. Theo Ngân hàng thế giới, ước tính thiệt hại do mực nước biển dâng 1m gây ra đối với Việt Nam có thể lên tới 10% GDP và 10%-12% dân số sẽ bị ảnh hưởng.

Đặc biệt, tác động rõ rệt nhất của BĐKH là sự gia tăng về tần suất, cường độ và tính phức tạp, khó lường của các loại thiên tai như bão, lũ lụt, hạn hán và xâm nhập mặn. Nằm trong vành đai chịu tác động của ổ bão châu Á - Thái Bình Dương, một trong năm ổ bão lớn của thế giới, Việt Nam là một trong số các nước phải gánh chịu tần suất thiên tai cao nhất thế giới. Thống kê hàng năm cho thấy, số người chết và mất tích do thiên tai lên đến hàng trăm người, chưa kể những thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước và nhân dân. BĐKH và những tác động của nó đang và sẽ đe dọa, phá vỡ những thành quả xóa đói, giảm nghèo, các nỗ lực thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ, cũng như ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của đất nước.

Nhóm giải pháp tổng thể

Để bảo vệ những thành tựu phát triển kinh tế trước đây và hiện nay, hạn chế những thiệt hại do BĐKH, cần tập trung thực hiện những giải pháp tổng thể về thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, cụ thể như sau:

Một là, chủ động thích nghi, ứng phó

Do BĐKH là quá trình diễn ra lâu dài, các hành động thích nghi, ứng phó phải triển khai đồng bộ, hệ thống, liên tục, lâu dài, liên ngành, liên vùng, cho nên Việt Nam ưu tiên thực hiện các hành động thích nghi và ứng phó tích cực với BĐKH, để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ người dân và đảm bảo phát triển bền vững đất nước.

Theo các nghiên cứu do Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện, BĐKH đã và đang tác động, làm cho các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan và thiên tai như bão, áp thấp nhiệt đới ở Việt Nam ngày càng diễn ra khốc liệt. Tuy không làm tăng số lượng các trận áp thấp nhiệt đới, bão ảnh hưởng trực tiếp, hoặc đổ bộ vào Việt Nam, nhưng BĐKH làm tăng cường độ và làm cho diễn biến của chúng trở nên rất phức tạp; làm tăng hạn hán, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng, lũ lụt, sạt lở đất ở miền Trung, ngập lụt ở các thành phố, khu đô thị.

Trước mắt, cần ưu tiên tập trung triển khai thực hiện ngay các dự án cấp bách, các hành động, chương trình, dự án đa mục tiêu, vừa phục vụ các mục tiêu trước mắt và lâu dài, vừa thích ứng với BĐKH, vừa phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. Đó là triển khai xây dựng bản đồ ngập lụt tương ứng với các kịch bản về nước biển dâng cho các vùng nhạy cảm như đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng; triển khai các giải pháp chống xâm nhập mặn hiệu quả ở các vùng cửa sông, để đảm bảo ổn định phát triển kinh tế kết hợp với củng cố nâng cấp hệ thống đê điều, đê sông ở các đoạn xung yếu nhất; triển khai các dự án chống ngập các thành phố, các khu đô thị lớn. Đồng thời, phải xây dựng hệ thống giám sát biến đổi khí hậu và nước biển dâng, gắn tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, rủi ro khí hậu và nước biển dâng, phục vụ công tác hoạch định chính sách và các hoạt động thích ứng từ trung ương đến địa phương; triển khai các giải pháp cụ thể để phòng chống hiệu quả thiên tai, lũ quét và sạt lở đất ở vùng núi, v.v.. nhằm giải quyết cơ bản các mối đe dọa hiện hữu đối với đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng và vùng duyên hải miền Trung: như triều cường, xâm nhập mặn, hạn hán, lũ lụt.

Về lâu dài, cần triển khai các hành động có lộ trình, bài bản theo quy hoạch tổng thể trong các lĩnh vực tài nguyên nước; nông nghiệp; y tế… Đối với lĩnh vực tài nguyên nước, cần tập trung thực hiện các giải pháp sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên nước; cải tạo, nâng cấp, tu bổ và xây mới các công trình thủy lợi, thuỷ điện; phát triển bền vững tài nguyên nước quốc gia. Trong lĩnh vực nông nghiệp, cần tập trung nghiên cứu và thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp; nghiên cứu và triển khai rộng rãi quy hoạch thời vụ, sử dụng đất nông nghiệp, duy trì diện tích canh tác các vùng, địa phương hợp lý và bền vững, để đảm bảo an ninh lương thực, duy trì và phát triển sinh kế nông thôn; tăng cường công tác nghiên cứu, phát triển và áp dụng công nghệ sinh học; xây dựng và hoàn thiện hệ thống kiểm soát, phòng chống sâu bệnh cây trồng và dịch bệnh vật nuôi; thiết lập và phát triển hệ thống bảo hiểm nông nghiệp. Trong lĩnh vực y tế, cải tạo, nâng cấp, xây mới cơ sở hạ tầng, hiện đại hoá trang thiết bị, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ ngành Y tế ở các vùng, miền, địa phương và tăng cường công tác phòng chống các dịch bệnh, để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Hai là, tích cực triển khai giảm nhẹ phát thải khí nhà kính

Là một nước đang phát triển có lượng phát thải thấp, Việt Nam tuy chưa phải thực hiện nghĩa vụ cắt giảm phát thải khí nhà kính, nhưng việc tích cực triển khai các hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, sẽ giúp Việt Nam có cơ hội để tận dụng các nguồn lực hỗ trợ song phương và đa phương, đồng thời thể hiện trách nhiệm quốc gia trong việc chung tay góp sức với cộng đồng quốc tế chống lại BĐKH. Tuy nhiên, đây là quá trình lâu dài, đòi hỏi phải xây dựng lộ trình và kế hoạch thực hiện cụ thể, để vừa đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo, vừa giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.

Trước mắt, có thể triển khai thực hiện trong các lĩnh vực Việt Nam hiện đang có lợi thế. Đó là tăng cường thực hiện các dự án trồng rừng, tái trồng rừng, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào trồng rừng kinh tế; thực hiện chương trình theo các cơ chế đang được quốc tế triển khai thí điểm như: giảm phát thải do phá rừng và suy thoái rừng (REDD/REDD+), sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp (LULUCF); triển khai thực hiện hiệu quả các chương trình, chiến lược năng lượng quốc gia; rà soát và từng bước loại bỏ các công nghệ lạc hậu, kém hiệu quả, tiêu hao nhiều năng lượng, phát thải khí nhà kính nhiều; tăng cường năng lực quản lý, giảm thiểu chất thải, tăng cường tái sử dụng và tái chế nguyên, nhiên liệu, xử lý rác thải đạt tiêu chuẩn, thu hồi và tận dụng khí mêtan từ các khu vực chôn lấp rác thải, đẩy mạnh tiết kiệm nguyên liệu trong sản xuất và tiêu dùng.

Trong hơn hai thập niên vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đưa đất nước thoát ra khỏi nhóm nước nghèo, thu nhập thấp. Tuy nhiên, phát triển kinh tế ở Việt Nam thời gian qua chủ yếu dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu thô và sơ chế với công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng và tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường.

Tác động của BĐKH đã giúp cho Việt Nam cơ hội để thay đổi triết lý và phương thức phát triển, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của phát triển, đi tắt đón đầu xu thế phát triển trên thế giới. Đó là phát triển nền kinh tế xanh, với nguyên tắc duy trì hoạt động kinh tế hiệu quả, trên cơ sở giảm thiểu sử dụng năng lượng và tài nguyên, thông qua sử dụng năng lượng tái tạo và thực hiện hiệu quả năng lượng; giảm thiểu áp lực về môi trường, phát triển rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thay đổi thói quen tiêu dùng lãng phí. Nền kinh tế xanh sẽ tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới, dịch vụ mới, công nghệ và thiết bị mới, năng lượng mới, thay đổi quy hoạch và xây dựng các công trình.Việc chuyển đổi sang phương thức phát triển này sẽ một mặt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định, mặt khác, làm dịu những căng thẳng của thiên nhiên và tạo ra nhiều việc làm.

Tại Hội nghị lần thứ 16 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH và Hội nghị lần thứ 6 các bên tham gia Nghị định thư Kyoto tại thành phố Cancun, Mêhicô, cuối năm 2010, vấn đề phát triển theo mô hình phát triển carbon thấp được nêu ra như yêu cầu bắt buộc đối với các nước phát triển và được khuyến nghị thực hiện đối với các nước đang phát triển, để cộng đồng quốc tế ứng phó tốt hơn trước những tác động của BĐKH.

Về lâu dài, Việt Nam cần triển khai thực hiện các hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, thông qua phát triển nền kinh tế xanh (carbon thấp). Vì phát triển nền kinh tế xanh sẽ giúp tăng cường sức mạnh của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong bối cảnh sẽ có những thay đổi về thể chế, chính sách kinh tế, thương mại toàn cầu. Đồng thời, phát huy lợi thế tài nguyên thiên nhiên, tận dụng hỗ trợ quốc tế từ các quỹ tín dụng carbon, để đầu tư vào phát triển nền kinh tế xanh, tạo ra nhiều ngành nghề cho người dân, phục vụ xóa đói, giảm nghèo.

Hiện nay, phát triển bền vững, hướng tới công nghiệp xanh, công nghiệp ít tiêu hao năng lượng và tài nguyên, hạn chế thấp nhất sản xuất gây ô nhiễm môi trường là một chủ trương nhất quán, được quán triệt trong lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước của toàn bộ hệ thống chính trị, từ Trung ương đến địa phương. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa qua đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hiệu quả, chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững. Và mới đây, Thủ tướng Chính phủ cũng đã có ý kiến chỉ đạo, giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương xây dựng chiến lược phát triển nền kinh tế xanh (carbon thấp).

Ba là, tăng cường năng lực, hoàn thiện cơ chế, chính sách

Bên cạnh hai nhóm giải pháp, hành động thích ứng nêu trên, cần tập trung triển khai nhóm hành động, giải pháp tăng cường năng lực, hoàn thiện thể chế, chính sách của Nhà nước. Theo đó, các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của các vùng phải được bổ sung, hoàn thiện trên cơ sở tính toán những tác động của BĐKH. Các cơ chế, chính sách và pháp luật về BĐKH được ban hành hài hòa với các thể chế, chính sách kinh tế, thương mại toàn cầu về biến đổi; các chế tài chính, các quỹ thích ứng, công nghệ sạch, khí hậu xanh được nghiên cứu, hình thành; các tiêu chuẩn, quy chuẩn trong thiết kế, triển khai xây dựng các dự án, công trình được rà soát, ban hành mới; năng lực đàm phán quốc tế được tăng cường trong các hoạt động ngoại giao, kinh tế; nguồn nhân lực về công nghệ sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sinh học được ưu tiên phát triển.

Cụ thể, cơ quan chức năng cần tiến hành rà soát, bổ sung và hoàn thiện các quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội và các quy hoạch thành phần: thủy lợi, quản lý tổng hợp tài nguyên nước, giao thông, sử dụng đất trên phạm vi cả nước và các vùng; xây dựng, ban hành, hoàn thiện, bổ sung các cơ chế, chính sách pháp luật về BĐKH như Luật Biến đổi khí hậu; nghiên cứu, hài hòa hóa các thể chế chính sách toàn cầu đang hình thành trong điều kiện mới; rà soát, hoàn thiện, bổ sung và ban hành mới các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; tăng cường đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và đầu tư nước ngoài cho hoạt động đào tạo, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao. Đồng thời, nghiên cứu hình thành các quỹ như Quỹ thích ứng, Quỹ Khí hậu xanh, Quỹ công nghệ sạch; nghiên cứu xây dựng Chiến lược quốc gia về phát triển nền kinh tế xanh, REDD/REDD+; ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích và thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân và cộng đồng; đầu tư và hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp có tiềm lực thí điểm nghiên cứu, phát triển các công nghệ cao, công nghệ sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sinh học...

Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang khẩn trương triển khai xây dựng Chiến lược quốc gia về BĐKH và sẽ sớm trình Thủ tướng Chính phủ ban hành. Với tầm nhìn dài hạn 100 năm và quan điểm toàn diện của Chính phủ Việt Nam về BĐKH, Chiến lược sẽ định hướng các hoạt động thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của Việt Nam trong thời gian tới, đồng thời cung cấp cơ sở để các Bộ, ngành và địa phương rà soát, bổ sung và hoàn thiện các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển hiện có, cũng như xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển trong tương lai trên cơ sở xác định rõ ràng các mục tiêu và ưu tiên thực hiện trong ngắn hạn và các mục tiêu, hành động sẽ được thực hiện trong trung và dài hạn.

BĐKH không chỉ có những tác động tiêu cực, những thách thức, mà còn mang lại những tác động tích cực, những cơ hội cho mỗi quốc gia. Vì vậy, để thích ứng và phát triển bền vững, cùng với sự quan tâm, hợp tác của các tổ chức quốc tế, các quốc gia trong khu vực và thế giới, việc Việt Nam thực hiện các giải pháp tổng thể trong mối quan hệ tương tác với BĐKH nêu trên sẽ một mặt, giảm thiểu những tác động tiêu cực, và mặt khác tận dụng các cơ hội do BĐKH mang lại./.

TS. Trần Hồng Hà
Uỷ viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất