Qua một số bài báo, thi thoảng bạn đọc lại ngỡ ngàng trước thông tin về vụ "đạo văn" nào đó mới bị phanh phui. "Thủ phạm" có thể là một sinh viên mới nhập trường, lại có thể là một tác giả đã ít nhiều thành danh... Tuy nhiên, sau những lần công luận "ồn" lên như vậy, những tưởng hiện tượng nói trên sẽ phần nào bị đẩy lui, nhưng không, hiện tượng "đạo văn", xâm phạm bản quyền dường như ngày một gia tăng, thậm chí còn biến hóa dưới những dạng thức khá tinh vi.
Vì thế, có nhà nghiên cứu đã nhận xét: "đạo văn" đang có nguy cơ làm mai một nhiệt huyết sáng tạo của không ít trí thức và văn nghệ sĩ chân chính, đồng thời có thể làm cho tình hình học thuật vốn còn nhiều yếu kém dễ trở nên trì trệ hơn.
Trong một lần trò chuyện với anh em viết văn trẻ, nhà thơ Xuân Diệu tâm sự rằng, thế hệ của ông có học, có "thuổng" từ thơ Pháp ít nhiều (điều này Xuân Diệu đã nói đi nói lại nhiều lần) và dẫn chứng ông thường đưa ra là việc bài thơ Yêu của ông (Yêu là chết ở trong lòng một ít - Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu? - cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu - Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết...), chỉ vẻn vẹn 13 câu mà ông đã chịu ảnh hưởng của những... ba nhà thơ Pháp, cả về ý tưởng lẫn cấu trúc, nhạc điệu. Tuy nhiên, ảnh hưởng thì ảnh hưởng vậy, cái chính là từ một sự "gợi ý", ông có thể nâng cấp, biến hóa thành những sản phẩm đặc biệt, mang hương vị của tâm hồn mình, cốt cách dân tộc mình. Cũng vậy, trong lần hồi tưởng bước đầu đến với văn học của mình, nhà thơ Chế Lan Viên đã tỏ ra tâm đắc với một quan điểm của A-ri-xtốt: "Hai nguồn gốc của thơ thì một là bắt chước". Nghệ thuật là sự kích thích, gây men, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, không thể nói không có sự ảnh hưởng, kế tục. Vấn đề là "ảnh hưởng" bao nhiêu thì vừa, và phải chuẩn bị những gì để không bị "đồng hóa", bị "nô dịch". Chẳng hạn như ở trường hợp bài Yêu của Xuân Diệu, mặc dù so sánh về ý, nó có sự "vay mượn" khá rõ của thơ Pháp, nhưng về tổng thể mà nói, bài thơ vẫn cho thấy ở Xuân Diệu một kỳ công trong sáng tạo (chính bởi lẽ đó mà nó có vị trí riêng trong làng thơ Việt Nam, và được nhiều bạn trẻ chép trong sổ tay). Như vậy, trong lĩnh vực văn học - nghệ thuật, cần phải phân định minh bạch ranh giới giữa ảnh hưởng có tính sáng tạo (cũng như sự ngẫu nhiên trùng hợp ý tưởng) với hành vi "đạo văn" để có một cách hành xử thỏa đáng. Hơn nữa, trước khi khẳng định một hành vi "đạo văn", chúng ta cũng cần thống nhất với nhau quan niệm thế nào là "đạo văn".
Trong lĩnh vực sáng tạo, người ta có thể chê các tác giả làm thơ, viết văn còn thiếu bản sắc, còn "chung chung", "sáo mòn", chứ không bao giờ vì thế mà người ta quy cho họ tội "ăn cắp văn" (mặc dù vẫn nói là họ "sáo mòn"). Ðó là vì vần thơ họ viết cũng chỉ là những gì họ thu lượm được. Nhưng cũng "chất liệu" ấy (kho tàng ngôn ngữ của dân tộc - tài sản chung để các nhà văn khai thác, sử dụng), một khi đã được các tác giả có thực tài nhào nặn, chưng cất thành sản phẩm mang dấu ấn sáng tạo đặc biệt của riêng họ (như những viên gạch được kết lại thành một công trình kiến trúc độc đáo) thì ai đó chớ dại mon men tìm cách biến nó thành tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Làm như vậy là người đó tự đặt mình bên bờ của sự phạm pháp.
Ðúng như ý kiến của nhà thơ Xuân Diệu đã nói, "ăn cắp văn người đâu phải dễ". Ai cũng biết, một đặc điểm của việc "ăn cắp" là phải làm thế nào đó để người khác không biết. Với chuyện văn chương, đặc điểm này đã gặp phải một điểm phi lô-gích (sở dĩ nói "ăn cắp văn" khó vì thế), vì văn chương một khi đã thật sự hay thường được nhiều người biết. Mà tìm cách lấy cái ai cũng biết, biến cái ai cũng biết ấy của người khác thành của mình thì quá lộ liễu, khác nào "lạy ông tôi ở bụi này", chẳng hóa ra là bỗng dưng chuốc lấy tiếng xấu cho mình? Ðiều đáng buồn là trong quá trình thực hiện hành vi này, để tránh bị phát hiện (hoặc có cơ sở khởi kiện), có người lại tìm cách chỉnh sửa câu chữ cho khác đi. Hậu quả là làm cho vấn đề trở nên méo mó, thiếu hẳn sự trung thực. Nên từng có ý kiến cho rằng, làm như vậy thì thà chấp nhận để họ "cóp" nguyên văn, thì xem ra vấn đề đỡ "phức tạp" hơn! Thêm nữa, do phần lớn trong chúng ta vẫn nghĩ, "đạo văn" phải là lấy nguyên cả đoạn, ít ra là từ một, hai câu trở lên thì mới có cơ sở để suy xét, cho nên trong thực tế, nhiều tác giả, dù biết mười mươi người ta đã "tận dụng" sức lao động của mình, mà cũng đành im hơi lặng tiếng, "nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình". Trong khi thực tế, như nhiều người đã biết, với truyện ngắn, tiểu thuyết, cấu tứ là rất quan trọng. Người ta không đạo đoạn văn mà chỉ thuổng mô-típ truyện, cấu tứ truyện thì sao? Với thơ, có người cho rằng ý tưởng là quan trọng, nhưng cũng có người cho rằng cấu trúc giai điệu cũng rất quan trọng. Vậy trong vấn đề này, ta phải giải quyết như thế nào?
Thiết nghĩ, ngoài sự tự trọng của tác giả, trách nhiệm còn đặt lên vai những người "gác cổng" ở các cơ quan báo chí, truyền thông. Bởi hơn ai hết, họ cần phải trang bị cho mình một vốn văn hóa sâu rộng, một vốn liếng sách vở phong phú, một tri thức chuyên ngành phong phú,... để có thể "soi chiếu" vào tác phẩm, công trình mỗi khi biên tập. Có như vậy, may ra mới hạn chế được những trường hợp "cầm nhầm" trong sáng tạo, trả lại cho bầu không khí văn chương, học thuật sự trong lành cần thiết. Bên cạnh đó, để bảo đảm tính khoa học, khi công bố các công trình, bài viết của mình, các tác giả cũng nên ghi dấu thời điểm chúng ra đời, đặc biệt là thời điểm (và nơi) in ấn, xuất bản. Về lý thuyết mà nói, một tác phẩm ra đời sau, nếu có nhiều điểm trùng lặp với một tác phẩm được công bố trước đó, thì tác phẩm ấy phải được suy xét đến khả năng: hoặc tác giả có sự trùng hợp ngẫu nhiên về mặt tư duy, hoặc là đã có hành vi "đạo văn".../.
(Theo: Phạm Khải/ND)