Chủ Nhật, 29/12/2024
Kinh tế
Thứ Sáu, 10/3/2017 22:1'(GMT+7)

Hội thảo khoa học quốc tế “Chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035"

Quang cảnh Hội thảo khoa học quốc tế “Chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035" (Ảnh DP)

Quang cảnh Hội thảo khoa học quốc tế “Chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035" (Ảnh DP)

Dự và chủ trì Hội thảo có các đồng chí: Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương; Cao Đức Phát, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương; Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Hùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Tổng Giám đốc Tập đoàn Viễn thông Quân đội; Phạm Viết Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối các Doanh nghiệp Trung ương; Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương. 

Cùng tham dự Hội thảo còn có các diễn giả chính là chuyên gia quốc tế đến từ Đại học Waseda (Nhật Bản), Đại học Harvard (Mỹ), các chuyên gia đến từ hơn 20 tổ chức quốc tế, đại điện lãnh đạo các bộ, ban, ngành trung ương, địa phương, các nhà khoa học, các cơ quan báo chí.

Phát biểu tại Hội thảo, đồng chí Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đã khẳng định: "Qua các thời kỳ, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đề ra các chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp. Đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập WTO (năm 2007), chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng đã liên tục được bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh tình hình mới". Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành đã thể chế hóa thành khoảng 300 văn bản quy phạm pháp luật bao quát khá đầy đủ các nội dung có liên quan đến chính sách công nghiệp quốc gia.

Các chính sách chung và chính sách ngành trong lĩnh vực công nghiệp được ban hành trong thời gian qua đã có tác động tích cực đến sự phát triển của công nghiệp Việt Nam trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, nhất là trong 10 năm trở lại đây. Giá trị sản xuất công nghiệp và giá trị gia tăng công nghiệp tăng trưởng liên tục trong nhiều năm.Trong mười năm qua (2006-2015), tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng 3,42 lần. Tỉ trọng GDP công nghiệp cũng duy trì ổn định khoảng 31-32%/tổng GDP của cả nước. Tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp tăng nhanh hơn nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới. Trong nhiều năm, lĩnh vực công nghiệp có tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân.Tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp trong mười năm 2006-2015 bình quân 6,9%/năm (giai đoạn 2006-2010 là 5,9%/năm và giai đoạn 2011-2015 là 7,9 %/năm). Sau gần mười năm, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp tăng gần 3,5 lần. Cơ cấu xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chuyển dịch tích cực, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chế biến chế tạo, chiếm tỷ trọng chủ yếu và tăng liên tục (năm 2007 chiếm 78%, năm 2015 tăng lên chiếm 97,3%). Trong cơ cấu các ngành công nghiệp, công nghiệp quốc phòng đã có chuyển biến rõ nét.

Phát triển công nghiệp trong thời gian qua đã góp phần tích cực trong giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của nhân dân. Hiện nay, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế tư nhân trong nước đóng góp ngày càng lớn vào đầu tư phát triển công nghiệp của đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình phát triển công nghiệp đất nước cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, điển hình như: Công nghiệp nước ta đang ở trình độ thấp, chủ yếu đang phát triển theo chiều rộng, nội lực còn yếu, phụ thuộc nhiều doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), sự liên kết giữa các FDI với các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế; Tăng trưởng sản xuất công nghiệp chưa cao, thiếu bền vững. Năng suất lao động công nghiệp, nhất là ngành công nghiệp chế biến – chế tạo còn ở mức thấp. Tốc độ tăng NSLĐ của ngành công nghiệp giai đoạn 2006-2015 khoảng 2,4%/ năm, tốc độ tăng chậm hơn tốc độ tăng bình quân chung của nền kinh tế là 3,9%. So với các quốc gia trong khu vực, NSLĐ công nghiệp của Việt Nam, nhất là NSLĐ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo còn khá thấp (Malaysia có mức NSLĐ ngành chế biến chế tạo cao gấp 6,4 lần, Thái Lan cao gấp 6,4 lần, Philippine cao gấp 3,6 lần). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng ngành công nghiệp vẫn còn khá thấp, gia tăng vốn và lao động vẫn đóng góp chủ yếu, đóng góp của yếu tố công nghệ đối với tăng năng suất của ngành chế biến, chế tạo chỉ chiếm khoảng 11,1%.

Đồng chí Nguyễn Văn Bình cho rằng, những yếu kém, hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Đồng thời, đồng chí cũng khẳng định, để tiếp tục thực hiện chủ trương, mục tiêu và nhiệm vụ được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, xây dựng nền tảng sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, việc xây dựng khung khổ chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam đồng bộ, hiệu quả nhằm đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2016 - 2025, tầm nhìn đến năm 2035 là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ này đã được nêu rõ trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 khóa XII (Nghị quyết 05-NQ/TW ngày 01/11/2016), cụ thể là "Xây dựng và thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia, tạo khuôn khổ chính sách đồng bộ, trọng tâm, đột phá hướng vào tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”.

 

Tại hội thảo, đồng chí Nguyễn Văn Bình đề nghị các đại biểu, các nhà khoa học, các chuyên gia, các nhà quản lý tập trung thảo luận làm rõ một số nội dung như: Một là, phân tích, làm rõ các nút thắt, rào cản trong phát triển công nghiệp của Việt Nam. Luận giải rõ nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong phát triển công nghiệp Việt Nam suốt 30 năm qua; Hai là, đề xuất quan điểm, mục tiêu của chính sách công nghiệp quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035; Ba là, làm rõ các trụ cột chính của chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn tới; Bốn là, đề xuất, kiến nghị các nhiệm vụ, giải pháp lớn của chính sách công nghiệp quốc gia.

Bên cạnh đó Hội thảo nhận được nhiều bài tham luận, tập trung sâu vào các nhóm vấn đề chính như: Thứ nhất, đổi mới tư duy và phương pháp tiếp cận trong xây dựng chính sách công nghiệp quốc gia được nhiều tham luận tập trung làm sâu sắc, đặc biệt là các chuyên gia nước ngoài. GS. Trần Văn Thọ, Đại học Waseda, Nhật Bản cho rằng Việt Nam phải đẩy mạnh công nghiệp hóa vừa theo diện rộng vừa tiến sâu vào chuỗi giá trị của sản phẩm công nghiệp, đồng thời cần có chính sách khôn ngoan chọn lựa FDI và nuôi dưỡng các doanh nghiệp tư nhân trong nước. Phải tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam kết nối có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu và từng bước tạo lập được thương hiệu riêng. GS Trần văn Thọ cho rằng chính sách đẩy mạnh công nghiệp hoá đất nước chỉ có giá trị trong một thời gian nhất định vì tình hình thay đổi thì chiến lược, chính sách cũng phải khác. GS Trần văn Thọ nhận định, Việt Nam chậm đưa ra các chính sách thích hợp và thiếu nỗ lực cải cách hệ thống quản lý hành chính, thiếu cán bộ quản lý có năng lực và trách nhiệm, nên đã không thu hút được nhiều FDI trong các ngành liên quan các loại máy móc. Chiến lược quan trọng để phát triển các ngành liên quan đến máy móc là phải phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, nhưng rất tiếc hiện nay các ngành này ở Việt Nam còn rất yếu.

Giáo sư David Dapice, Đại học Havard, Mỹ đặt vấn đề: cho đến năm 2025 là Việt Nam cần thay đổi những gì để tăng năng suất. Ông cho rằng, vấn đề thấy được ở đây là giá trị gia tăng thấp trong nhiều ngành xuất khẩu sản xuất. Hầu hết phụ kiện phải nhập khẩu và thậm chí sau một thập kỉ thì cũng rất hiếm có công ty sản xuất phụ tùng nhỏ nào của Việt Nam có triển vọng tăng trưởng tại Trung Quốc, Đài Loan hay Hàn Quốc. Cần phải giảm các khoản chi, nhất là các chi phí không chính thức là một vấn đề không chỉ giải quyết vấn đề tăng trưởng chậm hay nhanh mà còn là vì sự ổn định xã hội và chính trị. Từ đó, GS. David Dapice đã nêu ra một số hướng đi mà Việt Nam cần làm trong bối cảnh kinh tế quốc tế những năm tới.

Thứ hai, kinh nghiệm quốc tế về xây dựng chính sách phát triển công nghiệp của các quốc gia trên thế giới có nhiều thành công như Nhật bản, Hàn quốc, Đài Loan, Thái Lan cũng được nhiều chuyên gia có ý kiến tham luận nhất từ các chuyên gia nước ngoài. Quá trình phát triển công  nghiệp của các nước đều theo các giai đoạn tuần tự, phát triển những ngành có lợi thế cạnh tranh, trong đó ngành cơ khí chính xác có vai trò quan trọng đối với mọi nền công nghiệp. Kinh nghiệm cũng cho thấy, nhiều chính sách công nghiệp thành công đều tạo ra một môi trường thuận lợi để thúc đẩy các ngành công nghiệp phát triển theo định hướng trên cơ sở phân bố các nguồn lực hợp lý, theo cơ chế thị trường; dựa trên các trụ cột về khoa học công nghệ và nguồn  nhân lực, với sự tham gia của các thành phần kinh tế dưới sự định hướng và dẫn dắt của nhà nước. Nhà nước tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ cần thiết cho công nghiệp tăng trưởng nhanh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập thị trường, đẩy mạnh cạnh tranh, đồng thời hạn chế những khiếm khuyết do cơ chế thị trường đem lại.

Thứ  ba, nhận diện những cơ hội và thách thức, thuận lợi và khó khăn đối với phát triển công nghiệp đất nước trong thời gian tới. Theo TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội: Chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa qua “mang hình hài của quả mít, rất nhiều mũi nhọn như nhau nên không biết được đâu là ưu tiên, đâu là đột phá”. Giờ, điều này đến lúc buộc phải thay đổi.

Đồng chí Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương phát biểu khẳng định: Công nghiệp Việt Nam cần một hệ thống chính sách đồng bộ và hiệu quả, thực tiễn cho thấy, chúng ta không thiếu chính sách. Nhưng dường như, ngoài một số ít chính sách có hiệu quả, có tác động tạo sự đột phá, thì còn nhiều chính sách được ban hành còn chưa kịp thời và ít tác dụng. Giải pháp trong thời gian tới là, chúng ta cần đổi mới tư duy khi xây dựng chính sách, thay vì chỉ tiếp cận theo hướng “đưa chính sách vào cuộc sống” cần kết hợp đồng bộ với “đưa cuộc sống vào chính sách”, tức là, trên cơ sở các định hướng và mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn, phải xuất phát từ những đòi hỏi của cuộc sống để ban hành những chính sách phù hợp. Các ưu đãi đề xuất cần phải được cân nhắc kỹ, căn cứ vào nguồn lực, để sau khi ban hành, chính sách có thể triển khai thực hiện được.

Đồng chí Thứ trưởng Bộ Công thương cũng đưa ra một số gợi ý về cơ chế, chính sách cần được triển khai nhằm đưa công nghiệp Việt Nam phát triển bền vữngtrong 20 năm tới như: Trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, cần tập trung giải quyết tình trạng “đa nhưng không tinh” của các sản phẩm chế biến, đặc biệt là vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm. Trong lĩnh vực đầu tư, không đầu tư dàn trải vào tất cả các ngành, các lĩnh vực; tập trung tối đa vào một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu nhằm thúc đẩy tăng trưởng, xây dựng thương hiệu mạnh và chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và nước ngoài. Trong lĩnh vực thị trường, cần xác định phát triển thị trường hàng hóa là yếu tố quan trọng cho sự phát triển công nghiệp và Trong lĩnh vực liên kết ngành, cần phát huy sức mạnh tổng thể của các thành phần kinh tế, khai thác mọi nguồn lực cho phát triển.

Thứ  tư, đề xuất quan điểm, mục tiêu cần đạt của việc xây dựng chính sách công nghiệp quốc gia, các tiêu chí và nguyên tắc để lựa chọn lĩnh vực công nghiệp ưu tiên phát triển, cùng với các chủ trương, giải pháp lớn để tận dụng tốt cơ hội và vượt qua được các thách thức, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, sớm thực hiện được mục tiêu trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Các ý kiến phát biểu tại Hội thảo đều nhấn mạnh, trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu, rộng; Việt Nam cần tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư; xác định rõ vai trò của các thành phần kinh tế trong phát triển công nghiệp để định hướng chính sách phát triển phù hợp; thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công nghiệp; đa dạng hóa nguồn tài chính cho phát triển công nghiệp. 

Trong tham luận của mình, TS Vũ Thành Tự Anh, Trường Đại học Fulbright Việt Nam cho rằng, vấn đề chính không phải là nên hay không nên có chính sách công nghiệp ưu tiên, mà vấn đề là nên có chính sách công nghiệp ưu tiên như thế nào. Việt Nam không nên theo đuổi chính sách ưu tiên một số sản phẩm công nghiệp cá biệt như hiện nay. Thay vào đó, chính phủ nên thực thi chính sách ưu tiên phát triển một số “lĩnh vực năng lực” phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển dài hạn của đất nước.
 
TS. Dương Đình Giám, Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam nêu ra trong tham luận của mình những thách thức trong bối cảnh phát triển mới, đặc biệt là tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến công nghiệp Việt Nam đó là: Chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế; Năng lực công nghệ thấp kém; Các điều kiện bảo đảm cho tăng trưởng công nghiệp thiếu và không ổn định. Tham luận cũng đề xuất một số định hướng về chính sách phát triển cho giai đoạn đến 2025, tầm nhìn đến 2035, đó là: Điều chỉnh cơ cấu đầu tư; Lựa chọn ngành ưu tiên, mũi nhọn; Phát triển công nghiệp hỗ trợ; và Bảo vệ sản xuất nội địa thông qua hàng rào kỹ thuật.

Có thể nói, Chính sách phát triển công nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Tại Việt Nam, chính sách phát triển công nghiệp được đặt trong định hướng công nghiệp chung của quốc gia, đó chính là quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) là bước ngoặt có tính lịch sử quan trọng, đột phá về đổi mới tư duy, trong đó có tư duy về định hướng phát triển công nghiệp.Đến năm 1994, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/HNTW về Phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới.  Tiếp sau đó, nhiều ngành công nghiệp quan trọng như Cơ khí, Dầu khí, Điện lực, Than và khoáng sản, Công nghệ thông tin… đã được Bộ Chính trị quan tâm chỉ đạo thông qua ban hành các Nghị quyết, kết luận.

Việc rà soát, đánh giá chính sách công nghiệp hiện hành, hoàn thiện lý luận về chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam đặt trong lộ trình trung và dài hạn, bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trong cấu trúc mới của quá trình sản xuất công nghiệp toàn cầu, từ đó xác định định hướng chính sách phát triển công nghiệp đúng đắn, được thực thi mạnh mẽ, hiệu quả để hiện thực hóa mục tiêu đưa công nghiệp Việt Nam thực sự cất cánh là yêu cầu cấp thiết.

Hội thảo quốc tế “Chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035" trong thời điểm này thực sự có ý nghĩa quan trọng, là diễn đàn để các chuyên gia trong nước và quốc tế hiến kế cho các cơ quan chủ trì xây dựng chính sách công nghiệp quốc gia của đất nước trong thời gian tới./.

Duy Phong


Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất