CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC, TRONG ĐÓ CÓ NGUỒN NHÂN LỰC NỮ CỦA VIỆT NAM
Phát
triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn đề
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, thể hiện qua chủ trương,
đường lối của Đảng, được cụ thể hóa thành chính sách và quy định của
pháp luật. Đảng đã sớm có chủ trương đúng đắn về phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao, nhất là từ Đại hội XI (năm 2011) đến nay. Đến Đại
hội XIII (năm 2021), quan điểm về phát triển nguồn nhân lực tiếp tục
được kế thừa với tư duy sáng tạo, đột phá: “Phát triển nhanh nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn
nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên
cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất
lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân
tài...”(1). Quan điểm này đã thể hiện tư duy, tầm nhìn mới
của Đảng ta không chỉ trong việc phát triển nguồn nhân lực nói chung, mà
còn chú trọng tới việc thu hút, trọng dụng nhân tài, ưu đãi nguồn nhân
lực chất lượng cao nói riêng.
Chủ
trương, đường lối của Đảng nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, trong đó có nhân lực nữ, được cụ thể hóa qua nhiều văn bản luật
pháp, như: Luật Bình đẳng giới năm 2006 là văn bản pháp lý có ý nghĩa
quan trọng trong việc bảo đảm bình đẳng giới ở hầu hết lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong đó có lĩnh vực lao động và lĩnh vực chính trị; Quyết
định số 579/QĐ-TTg, ngày 19/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
"Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020”; Quyết định
số 641/QĐ-TTg ngày 28/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Đề án
tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011 -
2030”; Nghị định số 140/2017/NĐ-CP, ngày 5/12/2017 của Chính phủ về "Chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc,
cán bộ khoa học trẻ”; Quyết định số 899/QĐ-TTg, ngày 31/7/2023 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt "Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng
nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”...
Đối
với công tác phát triển đội ngũ cán bộ nữ tham gia hệ thống chính trị,
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, trong đó xác định rõ mục
tiêu, chỉ tiêu về cán bộ nữ, như Nghị quyết số 11/NQ-TW, ngày 27/4/2007
của Bộ Chính trị về "Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, xác định nguyên tắc và đề ra chỉ tiêu: Thực
hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào
tạo, đề bạt và bổ nhiệm cán bộ; phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham
gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên, nữ đại biểu Quốc hội và hội
đồng nhân dân các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ
30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh
đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình
đẳng giới. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 của Bộ Chính trị khóa
XII về "Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến
lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, xác định
chỉ tiêu: Đến năm 2030 phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp
ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20% -
25%; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%.
Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về "Đại hội đảng
bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”
xác định chỉ tiêu: Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở
lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ. Quy định số 50-QĐ/TW, ngày
27/12/2021 của Ban Chấp hành Trung ương, “về công tác quy hoạch cán bộ”
quy định: Phấn đấu cơ cấu, tỷ lệ quy hoạch cấp ủy và các chức danh lãnh
đạo, quản lý các cấp theo hướng cán bộ nữ từ 25% trở lên. Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: Bảo đảm có ít
nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại
biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp là phụ nữ. Nghị quyết số
1187/NQ-UBTVQH14, ngày 11/1/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về "Hướng
dẫn việc xác định dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ số lượng người
được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 -
2025” xác định: Phấn đấu tỷ lệ phụ nữ trúng cử khoảng 30% tổng số đại
biểu hội đồng nhân dân. Quyết định số 2282/QĐ-TTg, ngày 31/12/2020 phê
duyệt Chương trình “Tăng cường sự tham gia bình đẳng của phụ nữ trong
các vị trí lãnh đạo và quản lý các cấp hoạch định chính sách giai đoạn
2021 - 2030”, đề ra một số chỉ tiêu: Đến năm 2025 đạt 60% và đến năm
2030 đạt 75%, các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các
cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Tỷ lệ cán bộ nữ trong diện quy hoạch
chức danh quản lý, lãnh đạo các cấp đạt ít nhất 40% vào năm 2025 và đạt
50% vào năm 2030. Tỷ lệ cán bộ nữ trong diện quy hoạch chức danh quản
lý, lãnh đạo các cấp được đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực đạt 75%
vào năm 2025 và đạt 90% vào năm 2030. Chiến lược Quốc gia về bình đẳng
giới giai đoạn 2021 - 2030(2) nhắc lại chỉ tiêu: Đến năm 2025
đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính
quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Các văn bản trên là
cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao, trong đó có nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam hiện nay.
Thực hiện nghiên cứu, lai tạo giống
hoa lan bằng phương pháp nuôi cấy mô tại đơn vị thuộc Viện Khoa học Nông
nghiệp Việt Nam. (Ảnh: TTXVN)
Trong
những năm qua, nguồn nhân lực nói chung của nước ta đã và đang dần tăng
cả về quy mô và chất lượng, trong đó, phụ nữ là nguồn nhân lực quan
trọng, đã và đang tham gia ngày càng nhiều vào tất cả lĩnh vực của đời
sống xã hội, có nhiều đóng góp đặc biệt trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước.
Theo
số liệu công bố mới nhất của Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động từ
15 tuổi trở lên của cả nước năm 2023 đạt 52,4 triệu người, cao hơn 666,5
nghìn người so với năm 2022, trong đó lực lượng lao động nữ chiếm
46,7%; tỷ lệ lao động nói chung qua đào tạo có bằng, chứng chỉ chiếm
27%, tăng 0,6% so với năm 2022. Theo nhận định của Tổ chức Lao động quốc
tế (ILO), tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi lao động tham gia vào lực lượng
lao động của nước ta luôn ở mức cao hơn so với trung bình thế giới, đạt
trên 70% (năm 2022, do ảnh hưởng, tác động của dịch COVID-19, tỷ lệ này
giảm xuống còn 61,6%). Cùng với sự tăng lên về số lượng, nhân lực chất
lượng cao của nước ta cũng tăng đáng kể, trong đó có một số ngành đạt
trình độ khu vực và quốc tế, như y tế, cơ khí, công nghệ, xây dựng...
Lực
lượng nữ trí thức ngày càng đông đảo, chiếm 42% tổng số trí thức của cả
nước và có nhiều đóng góp quan trọng trong mọi mặt của đời sống xã hội,
nhiều người trong số họ có chức danh, học vị cao. Theo danh sách được
công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư của Hội đồng Giáo sư Nhà nước,
giai đoạn 2019 - 2023, trong tổng số 2.059 người được công nhận chức
danh, có 534 giáo sư và phó giáo sư là nữ, chiếm tỷ lệ 26%. Trong nghiên
cứu khoa học, nhiều nữ trí thức đã làm chủ nhiệm đề tài nghiên cứu cấp
quốc gia hoặc các nhiệm vụ thuộc các chương trình trọng điểm cấp quốc
gia với kết quả đầu ra có tính khoa học và ứng dụng cao, được xã hội ghi
nhận.
Trong
hệ thống chính trị, nguồn nhân lực nữ chất lượng cao là một phần quan
trọng trong lực lượng tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định chiến lược,
kế hoạch, giải pháp xây dựng, phát triển đất nước và là lực lượng lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các chiến lược, kế hoạch, giải pháp đó.
Đây là đội ngũ đại diện cho lực lượng lao động nữ trong cả nước, đã và
đang đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo quan trọng và có những đóng góp tích
cực trong sự nghiệp xây dựng và phát triển địa phương, đất nước, cụ thể:
Trong khối cơ quan Đảng:
Đầu nhiệm kỳ 2020 - 2025, tỷ lệ nữ tham gia Bộ Chính trị là 5,6%, tỷ lệ
nữ trong Ban Bí thư là 18,2%, tỷ lệ nữ trong Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XIII chiếm 9,5%. Tỷ lệ nữ cấp ủy ở 3 cấp địa phương đều tăng
so với nhiệm kỳ trước, đạt và vượt chỉ tiêu 15%(3). Nữ bí
thư, phó bí thư ở cả 3 cấp cũng tăng với 14,3% bí thư tỉnh ủy là nữ;
11,4% phó bí thư tỉnh ủy/thành ủy là nữ; nữ chủ chốt cấp ủy cấp huyện
chiếm khoảng 10% và cấp xã là hơn 10(4). Trình độ chuyên môn
và lý luận chính trị cũng cao hơn so với nhiệm kỳ trước, với 100% nữ cấp
ủy cấp tỉnh có trình độ chuyên môn đại học trở lên và có trình độ lý
luận chính trị cao cấp, cử nhân; ở cấp huyện, tỷ lệ này là 99,7%
và 90,2%; cấp cơ sở là 85,9% và 91,2%.
Trong khối cơ quan dân cử và chính quyền các cấp: Tỷ
lệ nữ tham gia đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 đều cao hơn nhiệm kỳ trước, trong đó tỷ lệ
nữ đại biểu Quốc hội đạt và vượt chỉ tiêu 30% - cao nhất kể từ Quốc hội
khóa VI trở lại đây và là lần thứ hai trong 15 khóa Quốc hội đạt trên
30%. Trong số 151 nữ đại biểu khóa XV, có 120 nữ đại biểu có trình độ
chuyên môn trên đại học (chiếm 79,5%) và 137 nữ đại biểu có trình độ lý
luận chính trị cao cấp và cử nhân chính trị (chiếm 90,73%), cao hơn so
với nhiệm kỳ trước. Tỷ lệ nữ đại biểu hội đồng nhân dân 3 cấp nhiệm kỳ
2021 - 2026 đều đạt 29%(5), gần đạt chỉ tiêu 30(6).
Về trình độ: nữ đại biểu hội đồng nhân dân cả 3 cấp đều có trình độ
chuyên môn và lý luận chính trị cao hơn so với nhiệm kỳ trước; trong đó,
gần 100% nữ đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện có trình
độ chuyên môn đại học trở lên, đối với cấp xã, tỷ lệ này là 61,92%;
95,44% nữ đại biểu cấp tỉnh và 96,95% nữ đại biểu cấp huyện có trình độ
từ trung cấp lý luận chính trị trở lên; ở cấp xã tỷ lệ này là 71,24%.
Đối với nữ lãnh đạo chủ chốt các bộ, ngành Trung ương và địa phương, theo Báo cáo của Bộ Nội vụ(7),
trong tổng số 30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, có 4 nữ
bộ trưởng, chiếm 13,34%, 12/108 thứ trưởng và tương đương là nữ, chiếm
11,12% (tăng 8 người so với năm 2022); 2/15 tổng cục trưởng là nữ, chiếm
13,33% và 7/48 phó tổng cục trưởng là nữ, chiếm 14,6%. Có 77/765 cục
trưởng, vụ trưởng và tương đương là nữ, đạt 10,06% (tăng 72 người so với
năm 2022); 437 trong tổng số 1.874 phó cục trưởng, phó vụ trưởng và
tương đương là nữ, đạt 23,3% (tăng 364 người so với năm 2022). Đối với
các cấp địa phương: có 4.279/30.686 chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân
dân các cấp là nữ, đạt 13,9% (tăng 4.243 người so với năm 2022);
780/5.025 giám đốc, phó giám đốc sở và tương đương là nữ, đạt 15,5%
(giảm 795 người so với năm 2022); 12.864 nữ/44.821 trưởng phòng, phó
trưởng các phòng chuyên môn và tương đương, đạt 28,7% (tăng 8.028 người
so với năm 2022). Nữ lãnh đạo, quản lý các cấp nói chung ngày càng trẻ
hóa, có trình độ chuyên môn, lý luận cao hơn, cơ bản đáp ứng được yêu
cầu, nhiệm vụ công tác và khẳng định vị thế của mình trong công cuộc xây
dựng, phát triển địa phương, đất nước.
Tuy
nhiên, nguồn nhân lực nói chung, nhân lực nữ nói riêng, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao ở nước ta còn hạn chế, trong nhiều trường hợp,
lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Theo số liệu của Tổng cục Thống
kê, mặc dù nguồn lao động nữ dồi dào và tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao
động cao, nhưng tỷ lệ nữ qua đào tạo chỉ chiếm hơn 20%. Tình hình phụ
nữ tham chính cơ bản đã có sự chuyển biến tích cực, song ở nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương vẫn vắng bóng nhà lãnh đạo nữ. Tỷ lệ
thành viên nữ lãnh đạo trong Quốc hội, Chính phủ còn thấp, vẫn còn địa
phương không có nữ đại biểu Quốc hội(8), còn cơ sở không có cấp ủy viên là nữ, tỷ lệ nữ đại biểu hội đồng nhân dân một số địa phương chưa đạt 20%(9),
nữ chủ yếu đảm nhận vị trí cấp phó, giúp việc cho cấp trưởng là nam
giới. Nữ trí thức chưa được bố trí, sử dụng hợp lý, chế độ đãi ngộ chưa
tương xứng với đóng góp của họ. Khung chính sách, luật pháp về vai trò,
vị thế của nữ trí thức trong sự phát triển bền vững chưa được thể hiện
rõ nét. Hoạt động đào tạo nguồn nhân lực nữ chất lượng cao chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chưa tạo được môi trường thuận
lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài... Bên cạnh đó, phụ nữ
vẫn phải đối mặt nhiều thách thức từ định kiến giới, do đó giải quyết
hài hòa giữa sự nghiệp và gia đình luôn là “bài toán” khó đối với phụ
nữ.
Với
hệ thống quy định, chính sách, luật pháp ngày càng đầy đủ và hoàn
thiện, chất lượng nguồn nhân lực của nước ta đã từng bước được cải
thiện; lực lượng lao động nữ với quy mô tương đối lớn, cơ cấu đa dạng,
có mặt ở hầu hết ngành, nghề, lĩnh vực trong nền kinh tế; một số ngành,
lao động nữ chiếm số đông, đội ngũ cán bộ nữ có bước trưởng thành. Tuy
nhiên, việc xây dựng, phát triển và thực hiện chính sách đối với nguồn
nhân lực nữ chất lượng cao hiện nay vẫn còn những hạn chế:
-
Chính sách phát triển nguồn nhân lực nữ của nhiều ngành, địa phương mới
chỉ đề cập theo vùng, miền, ngành, nghề, lĩnh vực mà chưa có quy định
đặc thù cho phụ nữ, làm hạn chế cơ hội việc làm, thậm chí khiến phụ nữ
dễ mất việc làm, thu nhập thấp hơn thu nhập bình quân chung của xã hội
và chịu nhiều thiệt thòi trong việc thụ hưởng các chính sách xã hội. Bên
cạnh đó, các chính sách này chưa được thực hiện một cách đồng bộ, còn
tùy thuộc vào khả năng, điều kiện và sự quan tâm của người đứng đầu từng
bộ, ngành, địa phương.
Các
quy định về thu hút, trọng dụng nhân tài chủ yếu mang tính nguyên tắc,
chưa cụ thể hoặc được quy định riêng lẻ trong văn bản của các bộ, ngành,
địa phương; nội dung các quy định chủ yếu mới chỉ đề cập đến ưu tiên,
ưu đãi ở khâu đầu vào, như thực hiện xét tuyển đối với sinh viên tốt
nghiệp loại xuất sắc và cán bộ khoa học trẻ, chế độ phụ cấp đối với đối
tượng này mà chưa quy định cụ thể các nội dung quan trọng khác, như cách
thức sử dụng, phát huy trí tuệ, sở trường của người tài, tạo môi trường
làm việc phù hợp để giữ chân họ... dẫn đến tình trạng người tài sau khi
được thu hút, tuyển dụng có tâm lý muốn nghỉ việc, chuyển việc.
-
Công tác quy hoạch phát triển nguồn nhân lực, nhất là quy hoạch nhân
lực nữ của ngành, địa phương còn hạn chế, thiếu biện pháp cụ thể để
triển khai hiệu quả. Việc thực hiện các chỉ tiêu về cán bộ nữ cũng như
khai thác tối đa tiềm năng của nguồn lao động nữ chất lượng cao ở nhiều
địa phương chưa được quan tâm đúng mức.
-
Chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung, trong đó
có nhân lực nữ nói riêng chưa toàn diện, chưa theo kịp xu thế và yêu cầu
thực tiễn. Tỷ lệ nữ tham gia đào tạo, bồi dưỡng nhìn chung còn thấp,
nhưng các cơ quan chức năng chưa có giải pháp kịp thời, hiệu quả; chưa
phát huy được hết thế mạnh của lực lượng phụ nữ thuộc nhóm “dẫn dắt”,
như nữ quản lý, lãnh đạo, nữ doanh nhân, nữ trí thức...
Cần hoàn thiện hệ thống chính sách,
pháp luật, tạo điều kiện hỗ trợ nguồn nhân lực nữ chất lượng cao phát
huy tiềm năng, thế mạnh. (Ảnh minh họa: nhiepanhdoisong.vn)
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI NGUỒN NHÂN LỰC NỮ CHẤT LƯỢNG CAO
Một
là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm khuyến
khích, động viên, tạo điều kiện hỗ trợ nguồn nhân lực nữ chất lượng cao
phát huy tiềm năng, thế mạnh, đóng góp cho địa phương, đất nước
Đảng,
Nhà nước tiếp tục quan tâm xây dựng, tổ chức thực hiện chủ trương,
chính sách về phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao, chú trọng
nâng cao cả về thể lực và trí lực cho nguồn lao động nữ; nghiên cứu cải
cách chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ hợp lý, bảo đảm tái tạo sức
lao động và nâng cao mức sống của người lao động nữ; đặc biệt là chỉ đạo
thực hiện tốt Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất
lượng cao, trong đó có nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững trong giai đoạn mới.
Các
bộ, ngành, địa phương quan tâm xây dựng, tạo môi trường làm việc có
tính đến các đặc thù của phụ nữ để tạo điều kiện cho họ phát huy hết tài
năng, trí tuệ, cống hiến cho sự phát triển của cơ quan, đơn vị, địa
phương, đất nước. Quan tâm đào tạo, bố trí và sử dụng nhân tài phù hợp
với năng lực, sở trường để tạo động lực thúc đẩy họ không ngừng lao động
sáng tạo, cống hiến cho địa phương, cơ quan, đơn vị. Nghiên cứu cơ chế
áp dụng đối với nhân tài về đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, bầu cử không
phụ thuộc vào thâm niên, thời gian công tác, độ tuổi, vùng, miền.
Quan
tâm chính sách đối với cán bộ nữ tham gia các nhiệm vụ khoa học và công
nghệ, tạo điều kiện cho các nhà khoa học nữ tham gia thông qua việc quy
định một tỷ lệ nữ nhất định trong số những người đáp ứng điều kiện,
tiêu chuẩn để giao nhiệm vụ. Ngoài ra, khi vinh danh, khen thưởng người
làm khoa học thì nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn có tính đến yếu tố giới,
hoặc tăng cơ cấu giải thưởng dành cho cán bộ khoa học nữ, vì để đạt
được cùng một thành tích, phụ nữ cần nỗ lực phấn đấu nhiều hơn so với
nam giới.
Các
cấp, ngành, địa phương quan tâm ban hành chính sách đào tạo, thu hút,
trọng dụng nhân tài hợp lý, tránh tình trạng “chảy máu chất xám”. Ngoài
ra, chú trọng đến chính sách phân bổ nguồn lực chất lượng cao cho các
vùng, miền, địa phương có điều kiện khó khăn nhằm thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa các vùng, miền. Đổi mới chương trình, nội dung và cách
thức đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực cho nguồn nhân lực
nữ; xây dựng các chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng đặc thù cho
người lao động nữ đạt chuẩn quốc gia, khu vực, quốc tế ở các trình độ;
chú trọng việc cập nhật kiến thức, kỹ thuật, công nghệ mới; phát triển
chương trình đào tạo, hình thức tổ chức đào tạo linh hoạt theo yêu cầu
của người học: đào tạo trực tuyến, đào tạo tại chỗ, tăng cường hướng
dẫn, kèm cặp, vừa làm, vừa học...; chú trọng phát triển các chương trình
và hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp cho các nhóm phụ nữ đặc thù.
Hai là, tiếp tục thực hiện chính sách, giải pháp thúc đẩy phụ nữ tham gia ngày càng nhiều hơn vào quản lý nhà nước và xã hội
Một
trong những vấn đề mấu chốt dẫn đến một số bất cập về cơ hội tham gia
quản lý nhà nước và xã hội của phụ nữ so với nam giới là sự chênh lệch
về tuổi nghỉ hưu. Hiện nay, khoảng cách tuổi nghỉ hưu của nam và nữ đã
dần được thu hẹp, nhưng đến năm 2035 vẫn chênh nhau hai năm, trong khi
tiêu chuẩn, điều kiện quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ nam và nữ hiện nay vẫn
như nhau. Vì thế, với quy định hiện hành, nữ giới sẽ bị hạn chế cơ hội
hơn so với nam giới do nghỉ hưu trước. Điều này dẫn đến lãng phí nguồn
lực do cán bộ nữ phải nghỉ chế độ khi đang trong độ tuổi chín về kiến
thức, kỹ năng và dày dặn về kinh nghiệm công tác. Với quy định về tuổi
nghỉ hưu của nam và nữ như hiện nay, cần nghiên cứu điều chỉnh các điều
kiện, tiêu chuẩn quy hoạch, bổ nhiệm đối với cán bộ nữ phải tính đến đặc
thù về tuổi nghỉ hưu để cán bộ nữ không bị thiệt thòi và không bị lãng
phí nguồn nhân lực. Đồng thời, có cơ chế hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ nữ, hoặc trong quá trình luân chuyển công tác (thực tiễn cho thấy,
hiện nay có rất ít bộ, ngành, địa phương có chính sách riêng hỗ trợ,
khuyến khích nữ cán bộ, công chức, viên chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng
hay luân chuyển).
Các
cấp ủy, nhất là người đứng đầu quan tâm, bảo đảm tỷ lệ nữ trong đào
tạo, quy hoạch đặc biệt là cán bộ nữ trẻ, cán bộ nữ người dân tộc thiểu
số; có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện cho cán bộ nữ rèn
luyện gắn với quy hoạch để tạo nguồn nhân sự nữ chất lượng cao, chuẩn bị
cho đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 và bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XVI, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 -
2031. Quan tâm kiện toàn, bổ sung cấp ủy kịp thời, đặc biệt là ở những
địa phương, đơn vị chưa đạt chỉ tiêu cán bộ nữ cấp ủy và chưa có nữ
trong ban thường vụ; chú trọng bố trí, sắp xếp, luân chuyển cán bộ nữ đủ
tiêu chuẩn vào các vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là các vị trí
chủ chốt còn khuyết. Chú trọng tạo nguồn ngay từ lúc tuyển dụng, có
chính sách thu hút đối với nữ sinh viên xuất sắc để tạo nguồn cán bộ nữ.
Quan tâm phát triển đảng viên nữ ở các vùng đồng bào theo đạo, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo; đồng thời củng cố,
nâng cao chất lượng cũng như phát huy vai trò của đội ngũ đảng viên nữ
tại địa bàn.
Ba
là, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong xây dựng và tổ chức
thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với nguồn nhân lực nữ chất lượng
cao
Các
cấp, các ngành, các địa phương, nhất là người đứng đầu, cần nhận thức
rõ vai trò, tầm quan trọng của nguồn nhân lực nữ chất lượng cao đối với
sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới và có biện pháp, giải
pháp cụ thể để xây dựng và phát triển nguồn nhân lực nữ.
Bên
cạnh đó, cần tiếp tục nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về vai trò, vị
trí, khả năng đóng góp của phụ nữ bởi định kiến xã hội luôn là rào cản
lớn đối với sự phấn đấu, phát triển của phụ nữ. Những quan điểm, nhìn
nhận chưa đúng về khả năng của nữ giới là một trong những nguyên nhân
dẫn đến tỷ lệ, sự tham gia và ảnh hưởng của nữ lãnh đạo, quản lý từ cấp
Trung ương đến địa phương còn hạn chế. Gánh nặng công việc gia đình cũng
như thiếu sự hỗ trợ và thấu hiểu từ người thân cũng gây trở ngại đối
với phụ nữ trong quá trình thăng tiến và phát triển sự nghiệp. Sự thiếu
niềm tin đối với phụ nữ trong hoạt động nghiên cứu khoa học cũng góp
phần tạo ra khoảng cách giới trong hoạt động trí tuệ, sáng tạo giữa trí
thức nữ và trí thức nam, tác động trực tiếp đến sự phát triển đội ngũ
trí thức nữ. Bên cạnh đó, nhiều phụ nữ cũng chưa vượt qua được chính
mình, chưa tự tin để phấn đấu, phát triển sự nghiệp. Vì vậy, cần tuyên
truyền để nâng cao vị thế cho người phụ nữ cũng như giúp họ vượt qua
được những rào cản.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách đối với nguồn nhân lực chất lượng cao
Để
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được
hiện thực hóa, thực thi hiệu quả trong đời sống thì công tác kiểm tra,
giám sát rất quan trọng. Trên cơ sở đó, phát hiện những bất cập, những
điểm chưa phù hợp, chưa làm tốt, “khoảng trống” giữa quy định và hiện
thực để có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Cấp ủy, chính quyền các cấp
tăng cường kiểm tra cấp dưới và lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, bảo đảm thực
hiện tốt quy định của pháp luật về xây dựng nguồn nhân lực chất lượng
cao và các chỉ tiêu về cán bộ nữ. Xây dựng cơ chế khuyến khích, khen
thưởng kịp thời, đồng thời phê bình, nhắc nhở đối với tập thể, cá nhân
chưa quan tâm đúng mức, chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề này, thông qua
công tác kiểm tra, giám sát./.
HÀ THỊ NGA
Ủy viên Trung ương Đảng,
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
_________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.i, tr.203-204.
(2) Ban hành kèm theo Nghị quyết số 28/NQ-CP, ngày 3/3/2021 của Chính phủ.
(3) Cấp tỉnh đạt 15,7% (tăng 2,4%), cấp huyện 17% (tăng 2,7%), cấp cơ sở 20,8% (tăng 1,1%).
(4) Nữ bí thư cấp xã là 11,4% và nữ phó bí thư là 14,8%.
(5)
Cụ thể: nữ đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh đạt 29% (cao hơn 2,44%
so với nhiệm kỳ trước), cấp huyện đạt 29,08%, (cao hơn 1,58%); cấp xã
đạt 28,98% (cao hơn 2,39%).
(6) Theo Nghị quyết số 1187/NQ-UBTVQH14, ngày 11/1/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
(7) Báo cáo số 952/BC-BNV, ngày 26/2/2024 về việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2023.
(8) Thành phố Hải Phòng, tỉnh Cà Mau.
(9) Tỉnh Thừa Thiên Huế, tỉnh Khánh Hòa, tỉnh Long An và tỉnh An Giang.
(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)