Thứ Tư, 4/12/2024
Lý Luận
Thứ Sáu, 19/7/2024 15:52'(GMT+7)

Phát huy trường phái “ngoại giao cây tre” trong thời kỳ mới - Bài học từ Hiệp định Giơ-ne-vơ

Phiên họp toàn thể bế mạc Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao ở Giơ-ne-vơ, tháng 7/1954. (Nguồn ảnh: Viện Lưu trữ Phim ảnh Nhà nước Nga).

Phiên họp toàn thể bế mạc Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao ở Giơ-ne-vơ, tháng 7/1954. (Nguồn ảnh: Viện Lưu trữ Phim ảnh Nhà nước Nga).

CHIẾN THẮNG CỦA “NGOẠI GIAO CÂY TRE” VIỆT NAM TẠI HỘI NGHỊ GIƠ-NE-VƠ

Trải qua 75 ngày đêm đàm phán với 31 phiên họp, trong đó có các phiên họp toàn thể, phiên họp cấp trưởng đoàn cùng nhiều cuộc tiếp xúc song phương và đa phương, Hiệp định Giơ-ne-vơ đã được ký kết. Hiệp định là văn bản pháp lý quốc tế quan trọng. Lần đầu tiên các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được các nước lớn công nhận tại một hội nghị đa phương. Thắng lợi trên bàn đàm phán Giơ-ne-vơ đã thể hiện bản lĩnh của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, buộc Pháp và các nước tham gia hội nghị “cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”, “tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội trị” của Việt Nam, Lào và Campuchia.

Thứ nhất, kiên cường, quyết liệt nhưng luôn mềm mại, khéo léo.

Đàm phán Giơ-ne-vơ về Đông Dương chính thức khai mạc ngày 8/5/1954 - một ngày sau khi quân và dân Việt Nam làm nên chiến thắng “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” tại Điện Biên Phủ. Phái đoàn của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến dự Hội nghị trong tư thế của dân tộc chiến thắng. Ngày 10/4/1954, trong báo cáo trước Quốc hội về chủ trương của ta đối với Hội nghị Giơ-ne-vơ, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh lập trường của nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là: hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ cho Việt Nam và các nước Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, nếu Chính phủ Pháp muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo đường lối hoà bình, thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tiếp ý muốn đó. Tuy nhiên, cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”(1).

Trên bàn đàm phán, lập trường của Pháp chỉ muốn Hội nghị giải quyết vấn đề quân sự để đi tới đình chiến, mà không đề cập đến vấn đề chính trị; đồng thời đòi tách vấn đề Lào, Campuchia ra khỏi vấn đề Việt Nam, đòi Việt Nam đơn phương rút khỏi Lào, trao trả tù binh, lập cơ quan kiểm soát quốc tế ở Lào và Campuchia. Tuy nhiên, Chính phủ ta luôn kiên định và khéo léo giữ vững lập trường để tập trung giải quyết những vấn đề lớn như: về đình chiến và khu vực tập kết; về hoà bình, độc lập, thống nhất và dân chủ; về mối quan hệ quân sự, chính trị giữa ba nước Đông Dương và với bên ngoài; vấn đề quan hệ với nước Pháp. Ngoài ra, ta còn kiên trì lập trường: Quân đội nước ngoài phải rút hết khỏi Việt Nam, Lào và Campuchia; không có căn cứ quân sự nước ngoài nào ở ba nước; quân đội Pháp chia từng bước rút khỏi Đông Dương; Pháp và các nước khác phải thừa nhận và tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, Lào và Campuchia. Quan hệ giữa các nước Đông Dương với bên ngoài phải dựa theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, bình đẳng, hai bên cùng có lợi và tuỳ tình hình từng nước mà định ra việc đình chỉ chiến sự, tổ chức tổng tuyển cử tự do để thành lập Chính phủ thống nhất ở mỗi nước. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng nêu ra đòi hỏi phải có đại diện của lực lượng kháng chiến Lào và Campuchia tham dự Hội nghị. Qua thời gian đấu tranh gay go, quyết liệt ở các diễn đàn khác nhau, những vấn đề then chốt dần được tháo gỡ, bằng những thoả hiệp của cả hai phía. Đêm 20, rạng ngày 21/5/1954 Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương được ký kết. Hiệp định đã ghi nhận thắng lợi to lớn, có tính bước ngoặt của cuộc đấu tranh kiên cường vì độc lập, tự do của dân tộc ta; xác nhận trên phạm vi quốc tế sự thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn của một đế quốc hùng mạnh, mở đầu cho sự sụp đổ hoàn toàn hệ thống chủ nghĩa thực dân trên quy mô toàn cầu.

 Ngày 4/5/1954, Phái đoàn ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, đến Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ) tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương, sau những diễn biến tích cực cho chiến thắng của quân đội Việt Nam tại chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Thứ hai, độc lập, tự chủ, “dựa vào sức mình là chính”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giành thắng lợi trên bàn đàm phán.

Cùng với quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc, Đảng đã vạch ra đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Phát huy chỗ mạnh cơ bản của cuộc kháng chiến chính nghĩa chống xâm lược của nhân dân ta, Đảng chủ trương vận động quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa; đồng thời tiến hành đấu tranh ngoại giao với Pháp để kết thúc chiến tranh, lập lại hoà bình. Trong khi nỗ lực tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, tìm cách đàm phán để đem lại hoà bình, Đảng và Nhà nước, nhân dân Việt Nam luôn khẳng định quyết tâm chiến đấu: “Hễ còn một tên lính thực dân trên đất nước Việt Nam, thì Việt Nam cứ đánh, đánh cho đến thắng lợi hoàn toàn, đánh cho đến độc lập và thống nhất thật sự”(2).

Từ đầu năm 1950, Trung Quốc, Liên Xô và nhiều nước phe XHCN đã công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Cách mạng Việt Nam thoát khỏi tình thế bị bao vây cô lập, tạo bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Mấy năm kháng chiến đã đưa lại cho nước ta một cuộc thắng lợi to lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, tức là hai nước lớn nhất trên thế giới - Liên Xô và Trung Quốc dân chủ và các nước dân chủ mới, đã thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một nước ngang hàng trong đại gia đình dân chủ thế giới. Nghĩa là ta đã đứng hẳn về phe dân chủ và nhập vào khối 800 triệu nhân dân chống đế quốc. Chắc rằng cuộc thắng lợi chính trị ấy sẽ là cái đà cho những thắng lợi quân sự sau này”(3). Trong giai đoạn 1950-1953, sự giúp đỡ quốc tế, mà chủ yếu là của Trung Quốc và Liên Xô đã góp phần quan trọng tăng thêm sức mạnh chiến đấu của quân và dân ta. Tính đến ngày 1/6/1954, Việt Nam đã nhận được viện trợ 21.517 tấn vật chất, trị giá 136 triệu nhân dân tệ (tương đương 34 triệu rúp). Tính riêng về vũ khí, trang bị kỹ thuật, ta nhận được 24 khẩu sơn pháo 75 ly, 24 khẩu lựu pháo 105 ly, 76 khẩu pháo cao xạ 37 ly (của Liên Xô), 12 khẩu pháo hoả tiễn H6 (của Liên Xô), 715 xe ô tô vận tải (trong đó 685 xe của Liên Xô)(4). Việt Nam đã học tập và vận dụng thành công một số kinh nghiệm của các nước anh em, trong đó có kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc, nhất là những kinh nghiệm tác chiến và huấn luyện quân đội. Sự ủng hộ quốc tế to lớn đó góp phần quan trọng tạo nên thắng lợi của kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược; tạo hậu thuẫn căn bản cho việc đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Giơ-ne-vơ.

Vào lúc 24 giờ ngày 20/7/1954 (giờ Giơ-ne-vơ)), tức sáng 21/7/1954 (giờ Hà Nội), Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu thay mặt Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ký Hiệp định đình chiến ở Việt Nam. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tương quan so sánh lực lượng trên bàn đàm phán Giơ-ne-vơ đã có biến chuyển mạnh mẽ theo chiều hướng có lợi cho ta. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta tại Hội nghị Giơ-ne-vơ nhận được sự ủng hộ quốc tế rộng rãi. Chính phủ cũng như dư luận nhiều nước trên thế giới đều đồng tình đấu tranh mạnh mẽ thúc đẩy xu thế đòi rút quân, chấm dứt chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Các nước Á, Phi độc lập đã lên tiếng mạnh mẽ đòi Pháp chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, để nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia được hưởng hoà bình, tự do và mưu cầu hạnh phúc. Vấn đề Việt Nam và Đông Dương trở thành điểm nóng dư luận, được cả thế giới quan tâm theo dõi. Sức mạnh nội tại, vị thế người chiến thắng của đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cùng sự ủng hộ của Chính phủ, nhân dân tiến bộ trên thế giới (bao gồm cả nhân dân tiến bộ Pháp) đã hội tụ, trở thành nhân tố căn bản giúp Việt Nam giành thắng lợi trên bàn đàm phán Giơ-ne-vơ.

Thứ ba, “vừa đánh, vừa đàm”, biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt” để đạt được mục đích cuối cùng.

Vào thời điểm các nước lớn đi đến quyết định triệu tập Hội nghị Giơ-ne-vơ, Đảng, Chính phủ ta nhận định đó là một thắng lợi của phe hoà bình, dân chủ tiến lên một bước để làm dịu bớt căng thẳng thế giới. Tuy nhiên, hội nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng họp trong hai ngày, từ 1 - 2/5/1954 đã chỉ ra rằng: ta không đánh giá quá cao Hội nghị Giơ-ne-vơ, nhưng không nên bỏ lỡ cơ hội, phải tranh thủ dư luận và tranh thủ làm cho Hội nghị Giơ-ne-vơ có thể bắt đầu để đi đến cuộc gặp gỡ sau. Sau thắng lợi Đông Xuân 1953-1954, qua phân tích tình hình Đông Dương và thế giới, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (7/1954) đã nhận định: Những thắng lợi đó đã làm cho lực lượng so sánh ta và địch biến chuyển có lợi cho ta nhưng chưa phải biến chuyển căn bản có tính chất chiến lược, vì vậy, nếu đế quốc Mĩ trực tiếp tham gia chiến tranh Đông Dương thì lực lượng so sánh giữa ta và địch sẽ có thể thay đổi không có lợi cho ta.

Trong quá trình đấu tranh tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, Chính phủ ta xác định phương châm là: “Tích cực, chủ động, linh hoạt, chắc chắn”. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia Hội nghị với yêu cầu tối cao là tranh thủ đi đến một hiệp định về toàn bộ; nếu không được thì cố gắng tranh thủ ký một số điều khoản về đình chiến. Nếu hiệp định đình chiến không đạt được thì cố gắng tranh thủ một hội nghị sau lại bàn. Tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trình bày lập trường đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là hoà bình, độc lập, thống nhất và dân chủ; đề ra giải pháp 8 điểm cho việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam và Đông Dương. Đề nghị của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mang tính toàn diện, cả về quân sự và chính trị, nhấn mạnh việc Pháp và các nước khác phải thừa nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia. Quân đội nước ngoài phải rút khỏi ba nước Đông Dương, tạo cơ sở quan trọng nhất cho giải pháp kết thúc chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Dư luận nước Pháp, Anh và các nước Đông Âu, châu Á cho đó là lập trường ôn hoà có nguyên tắc, góp phần quan trọng thúc đẩy cuộc đàm phán đi đến kết quả. Chủ tịch Hội nghị đưa ra quyết định, lấy bài phát biểu của Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đoàn Pháp làm cơ sở cho cuộc thảo luận tại Hội nghị về một giải pháp kết thúc chiến tranh Đông Dương; vấn đề quân sự và chính trị được thảo luận song song tại Hội nghị.

Phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ chụp ảnh chung tại Trụ sở phái đoàn ở Villa Cadre. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Trong các cuộc đàm phán của Hội nghị Giơ-ne-vơ, Việt Nam đã tỏ rõ bản lĩnh anh dũng, kiên cường nhưng cũng rất mềm mỏng; đấu tranh bằng biện pháp hòa bình, buộc đối phương phải ngồi vào đàm phán và ký kết Hiệp định. Trong khi khẳng định và kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, hoạt động đàm phán vẫn luôn uyển chuyển, linh hoạt “ứng vạn biến”, “lấy nhu khắc cương” để đạt được mục đích cuối cùng. “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”(5). Việt Nam đã linh hoạt ứng xử trong các tình huống cụ thể, nhưng không từ bỏ các nguyên tắc chiến lược và đã chiến thắng.

 

Hiệp định Giơ-ne-vơ là mốc son ghi dấu, khẳng định vai trò to lớn của trường phái “ngoại giao cây tre” trong lịch sử dân tộc. Luôn kiên định, cứng rắn về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược, bình tĩnh trong những lúc nguy nan; biết lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, phân hoá kẻ thù, nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ thù, vừa đánh vừa đàm là nghệ thuật đỉnh cao giúp Việt Nam giành thắng lợi.

 

PHÁT HUY “NGOẠI GIAO CÂY TRE” VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI

Bước vào thời kỳ mới, tình hình thế giới, khu vực có biến động phức tạp, khó lường. Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập đòi hỏi mỗi quốc gia phải có “lối đi riêng”, vừa hòa nhập cùng cộng đồng quốc tế, vừa không tự “đánh mất mình”, bị “hòa tan”, mất bản sắc. Sai lầm về đường lối đối ngoại của chính thể quốc gia có thể dẫn đất nước đi vào bế tắc. Trong bối cảnh đó, “hoạt động đối ngoại cần phải là một phương thuốc hòa bình hữu hiệu thu hẹp bất đồng, ngăn chặn xung đột, gia tăng hợp tác, mở đường cho những giải pháp”(6); “tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”(7). Phát huy bài học thắng lợi của “ngoại giao cây tre” từ Hiệp định Giơ-ne-vơ, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về trường phái “ngoại giao cây tre”.

Hoạt động này cần tiến hành đồng bộ, bảo đảm “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”. Tăng cường sử dụng hiệu quả công nghệ số, mạng xã hội phục vụ cho công tác tuyên truyền, giáo dục, bảo đảm những thông tin cơ bản, cần thiết đến được với các tầng lớp nhân dân, ở mọi vùng miền.

Hai là, kiên trì, kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế.

“Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”(8). Nâng cao khả năng thích ứng năng động và linh hoạt xử lý hài hòa lợi ích quốc gia, phù hợp với luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử tại khu vực, trên tinh thần lợi ích quốc gia - dân tộc là trên hết. Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương khu vực và quốc tế; tích cực tham gia củng cố, xây dựng, định hình các cơ chế đa phương, luật pháp quốc tế.

Các đại biểu dự Lễ kỷ niệm 70 năm ngày ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (21/7/1954 - 21/7/2024) với chủ đề “Hiệp định Geneva 1954 - Thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam trên con đường bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ", do Bộ Ngoại giao tổ chức tại Hà Nội, ngày 25/4/2024. (Ảnh: TTXVN)

Ba là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế số, thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững, tạo cơ sở vật chất cho “ngoại giao cây tre”.

Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển nhanh và bền vững. Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội và đối ngoại.

Bốn là, phát triển đội ngũ cán bộ đối ngoại toàn diện, hiện đại, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước trong tình hình mới.

Chú trọng “Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại toàn diện về bản lĩnh, phẩm chất, đạo đức và trí tuệ, hiện đại về phong cách, phương pháp làm việc, có năng lực đổi mới sáng tạo, đáp ứng các yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới”(9). Triển khai hiệu quả Đề án phát triển nguồn nhân lực ngành đối ngoại giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045; định rõ nhu cầu về nhân lực theo từng lĩnh vực, chuyên ngành của từng cơ quan, đơn vị gắn với những ưu tiên và định hướng về đối ngoại. Đội ngũ cán bộ đối ngoại phải luôn biết “giữ mình” ở mọi lúc mọi nơi, không dao động trước những dụ dỗ, mua chuộc tinh vi, khôn khéo của các thế lực xấu; từ đó, bình tĩnh xử lý các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn công việc, cuộc sống một cách tốt nhất theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”.

GS. TS. Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo Khoa học “70 năm Hiệp định Geneva về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam” (21/7/1954 - 21/7/2024), do Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Quốc phòng và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức sáng 19/7/2024 tại Hà Nội. (Ảnh: TTXVN)

Năm là, kịp thời nhận diện và tích cực đấu tranh phòng, chống những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc “ngoại giao cây tre” Việt Nam.

Chú trọng nâng cao khả năng “tự phòng, chống” của cán bộ, đảng viên và nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị. Kết hợp chặt chẽ giữa vận động, giáo dục, thuyết phục với kiên quyết xử lý nghiêm minh theo quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước đối với các đối tượng vi phạm./.

TS. NGUYỄN QUANG TẠO
Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Quân sự
Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng

___________________

(1) (2) (3) (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chình trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.6, tr.340, 262, 423-424, 555.

(4) Lục Thúy Hằng: Mặt trận ngoại giao từ tháng 3/1946 đến tháng 7/1954, Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên, 2008, tr.64-65.

(6) (7) (9) Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao toàn diện, hiện đại mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2023, tr.124, 164, 54.

(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.162.

 

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất