(TCTG)
-Lê Đại
Cang là một nhà nho, văn võ toàn tài. Cách đây gần 200 năm, ông đã có công lớn
khi khai mở đất đai bờ cõi của cha ông ta về phía Nam; cuộc sống của người dân miền Tây sông nước … qua các tập kí Nam hành,
Tục Nam hành…của ông là một minh chứng hùng hồn cho những đóng góp lớn lao của
ông quan triều Nguyễn này.
Một lần về công
tác tại Bình Định, dừng lại ở làng Luật Chánh thuộc huyện Tuy Phước, tôi đến thăm
Từ đường họ Lê. Khu Từ đường rộng rãi, khang trang giữa một vùng lúa trù phú của
miền Trung. Trải qua bao cuộc binh đao, lửa đạn, ngôi Từ đường được tu bổ lại
nhiều lần nhưng vẫn giữ được vẻ cổ kính, truyền thống. Trong gian thờ chính điện,
ngoài hoành phi, câu đối… khách đường xa dễ nhận ra một kỉ vật lạ là chiếc đòn
khiêng võng.
Hỏi ra mới biết chiếc đòn khiêng võng
này không phải để dùng cho ông quan văn Lê Đại Cang (1771 – 1847), người đã từng
giữ chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Nguyễn: Tri huyện Tuy Viễn (1802);
Thiên sự bộ binh (1810), trợ tá Tướng quân Lê Văn Duyệt ở phủ Lạc Hoà - thành
Gia Định, quan Thị Lang, Tham tư Bộ Lễ, quan cai bạ ở Quảng Nam, Vĩnh Long; Hiệp
trấn Sơn Tây, Khâm sai đại thần từng coi việc đê điều; giữa ấn triện Tổng trấn
Bắc thành, Thượng thư Bộ binh, Tổng đốc Sơn Tây - Hưng Hóa - Tuyên Quang; Tổng đốc
Ninh Bình, Hà Nội; Khâm sai Bắc kì bang giao sứ vụ…
Lịch sử của chiếc đòn khiêng cáng được
đặt trang trọng trong nhà thờ họ Lê ở Luật Chánh đánh dấu những ngày tháng ông
quan Lê Đại Cang bị triều đình cách chức xuống làm anh lính dõng, lao công đào
binh, đi khiêng cáng. Lần ấy, năm 2833, Lê Văn Khôi - một viên tướng của Lê Văn
Duyệt sau khi câu kết với giặc ngoại
bang nổi loạn đánh chiếm vùng đất An Giang - Hà Tiên, quan quân lương ít,
binh yếu không giữ được đất, quan Tổng đốc Lê Đại Cang cùng các ông Tổng đốc
Long Tường Lê Phúc Bảo, Tuần phủ Vĩnh Long Tô Trấn, Án sát Ngô Bá Toàn đều bị
triều đình cách chức. Làm lính nhưng Lê Đại Cang không nản lòng. Ông đã chiêu tập
lại đám binh mã vừa thua trận, tập hợp dân binh các làng cùng với quan quân triều
đình vào cứu viện, đánh đuổi quân giặc ra khỏi bờ cõi, lập nên công trạng và được
vua Minh Mạng phục chức.
Đúng 6 năm sau (1839), Lê Đại
Cang gặp nạn lần thứ 2 khi ông bày tỏ quan điểm bảo vệ những người dân Khơ me
trên vùng đất Tây Nam bộ bảo
vệ phên dậu phía Tây Nam
trái với ý muốn của triều đình. Thêm một lần vị Tham tán đại thần trấn Tây bị điều
đi làm lính khiêng võng tại Trà Ghi.
Lê Đại Cang trải qua 41 năm làm
quan, làm lính dưới 3 triều vua nhà Nguyễn: vua Gia Long, vua Minh Mạng, vua
Thiệu Trị, bắt đầu từ năm 1802 đến 1940. Đây là giai đoạn đất nước ta trải qua
nhiều biến động phức tạp. Chấm dứt triều đại Tây Sơn, nhà Nguyễn bước vào giai đoạn
củng cố quyền lực, xây dựng hệ thống chính trị, quân sự, khôi phục nền kinh tế
vốn bao năm suy kiệt bởi nạn binh đao. Nhưng có một việc quan trọng triều Nguyễn
đã làm được là củng cố giải đất phương Nam vốn lâu nay ít được chú ý và luôn
xảy ra những điều bất ổn về mặt địa giới, chính trị, quân sự và tập hợp nhân dân;
phức tạp, đa sắc, đa tôn giáo để củng cố vùng đất mới. Vị quan triều Nguyễn Lê Đại
Cang vừa là một nhân chứng lịch sử, hơn nữa ông còn có công góp vào việc hoạch định
các chính sách của vương triều Nguyễn, được vua Gia Long , vua Minh Mạng, vua
Thiệu Trị yêu quý tin dùng, trọng người tài. Đấy là lí do khi Thiệu Trị lên ngôi
đã phục hồi chức quan cho Lê Đại Cang, cử ông đặc cách bang giao với nhà Thanh,
giữ chức Viên ngoại lang, Khâm sai Bắc kì rồi Bố chánh Hà Nội khi đã ở tuổi ngoài
70.
Lê Đại Cang là một nhà nho, văn
võ toàn tài. Các tác phẩm Nam hành thi tập,
Tĩnh Ngu thi tập của ông còn lại đến
ngày nay càng khẳng định ông là một thi nhân; đồng thời qua các tác phẩm này,
ngày nay giúp chúng ta hiểu được công việc khai mở đất đai bờ cõi của cha ông
ta gần 200 năm trước; cuộc sống của người dân
miền Tây sông nước … qua các tập kí Nam
hành, Tục Nam hành… Chỉ cuốn phả ghi lại dòng họ Lê ở làng Luật Chánh - Tuy Phước đã có nhiều giá trị về văn bản học.
Lê Đại Cang quan niệm: “Tộc phải có phả như nước có sử, không sử thì
truyền thống ngày càng sa sút, văn hiến rơi vãi, không phả thì thế hệ không rõ,
cội nguồn mờ mịt”. Bản gia phả của Lê Đại Cang là bài học sâu sắc về tư
tưởng và đạo đức của người xưa, tuy quan niệm, ý thức hệ còn chịu nhiều ảnh hưởng
của thời đại phong kiến, song chúng ta cũng rút ra được nhiều bài học quý về đạo
làm người, trở thành những đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
ĐKC