Thực trạng mất cân bằng giới tính ở Việt Nam
Tỷ lệ nam và nữ là nhân tố quan trọng của dân số bởi nam và nữ khác nhau ở cả góc độ tự nhiên lẫn góc độ xã hội. Những điểm khác biệt này giúp chúng ta phân công lao động hợp lý cũng như xây dựng mối quan hệ bình đẳng về giới. Theo quy luật tự nhiên, khi sinh ra thì tỷ lệ nam và tỷ lệ nữ khá cân bằng. Để đánh giá mức độ cân bằng giữa nam và nữ, người ta dùng chỉ tiêu “Tỷ số giới tính”, tức là số nam tương ứng với 100 nữ. Bình thường, tỷ số giới tính khi sinh ở mức 104 - 107 nam/100 nữ. Do tỷ lệ tử vong ở trẻ em trai cao hơn trẻ em gái nên đến tuổi trưởng thành, tỷ lệ nam, nữ sẽ trở nên cân bằng.
Tuy nhiên, ở Việt Nam những năm gần đây tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) lại tiếp tục tăng. Năm 2000, TSGTKS của Việt Nam ở mức 106 nam/100 nữ. Kết quả Tổng điều tra dân số năm 2009 cho thấy, TSGTKS đã tăng đến ngưỡng là 110,5 nam/100 nữ. Như vậy hiện tượng mất cân bằng giới tính ở nước ta hiện nay đã đến mức đáng báo động.
Nghiên cứu của Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em (2005) về tình trạng giới tính khi sinh tại 6 tỉnh: Ninh Bình, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Đồng Nai và Cần Thơ thì tỉ lệ giới tính của trẻ khi sinh trong thời kỳ 5 năm (1999-2003) tại những tỉnh này là 115,6 nam/100 nữ. Tỉ lệ này cao hơn tỉ số tự nhiên của trẻ khi sinh, trung bình 104 - 106 nam/100 nữ, tỉ lệ này được coi là cân bằng đối với bất kỳ quốc gia nào.
Một nghiên cứu khác của Viện nghiên cứu Phát triển xã hội (2007) được thực hiện trên cả nước cho thấy, tỉ lệ giới tính khi sinh đã có sự chênh lệch đáng kể. Có tới 16 tỉnh, thành có tỉ lệ giới tính khi sinh từ 115 - 128 nam/100 nữ; ở 20 tỉnh, thành khác là 111- 120 nam/100 nữ. Cụ thể, tại Kiên Giang, cứ 125 nam thì có 100 nữ; tại Sóc Trăng là 124 nam/100 nữ; tại Bắc Ninh là 123 nam/100 nữ; tại Bình Định 107 bé trai/100 bé gái…
Tại hội thảo truyền thông về công tác dân số (15/6/2011), ông Nguyễn Đình Lân, phó Chi cục trưởng Chi cục dân số kế hoạch hóa gia đình cho biết, Hà Nội hiện có tỉ lệ sinh cao nhất đồng bằng sông Hồng. Trong 6 tháng đầu năm 2011, toàn thành phố có 49.830 trẻ em ra đời, tăng gần 3.000 trẻ so với cùng kỳ năm 2010. Tỉ lệ giới tính khi sinh mất cân bằng ở mức báo động khi có 118 nam/100 nữ.
Dựa trên phân tích những số liệu từ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, nghiên cứu của UNFPA (Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại VN) đã cho thấy ảnh hưởng dân số học của TSGTKS trong tương lai những kịch bản khác nhau có thể xảy ra. Với kịch bản thứ nhất “Không can thiệp”, TSGTKS toàn quốc sẽ lên đến 115 vào năm 2015 và chắc chắn không dừng lại ở đó. Theo kịch bản này, tỷ số giới tính với nhóm dân số ở độ tuổi trưởng thành (15 – 49 tuổi) sẽ ở mức 113/100 vào năm 2049, dẫn tới sẽ dư thừa 12% nam giới trong giai đoạn 2009 – 2049. Kịch bản thứ hai giả định có các chương trình, chính sách can thiệp mạnh mẽ để giải quyết sự mất cân bằng TSGTKS, thì TSGTKS sẽ tăng chậm hơn và ở mức 115 vào năm 2020 sau đó quay dần lại mức cân bằng sinh học là 105 vào năm 2030.
Nguyên nhân chính dẫn đến tỉ lệ chênh lệch giới tính khi sinh
Các nghiên cứu của Việt Nam hiện nay đã cho thấy có rất nhiều yếu tố tác động đến tình trạng mất cân bằng giới tính như hiện nay:
- Nguyên nhân chính vẫn là quan niệm trọng nam khinh nữ của những bậc làm cha, làm mẹ. Phần lớn những người này lại chịu áp lực từ chính những bậc phụ huynh của mình, cần có con trai để nối dõi tông đường và thờ cúng sau này. Tâm lý ưa thích con trai bắt nguồn từ những qui tắc của chế độ phụ hệ và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt mà hiện nay vẫn còn rất phổ biến ở Việt Nam. Theo những qui tắc đó, con trai có vai trò và trách nhiệm tiếp nối dòng dõi gia đình, chăm sóc cha mẹ khi tuổi già, duy trì tài sản và tiếp tục sự nghiệp của gia đình. Vì thế, nhiều phụ nữ, khi mang thai đến tháng thứ 4, thứ 5, nếu kết quả siêu âm là con gái, họ sẵn sàng phá bỏ để… đợi lần sau. Cũng có nhiều phụ nữ ở các vùng nông thôn không có khả năng tiếp cận dịch vụ chẩn đoán giới tính thai nhi sớm, nên vô tư sinh tiếp con thứ 4, thứ 5 cho đến khi có con trai mới chịu dừng. Tư tưởng trọng nam khinh nữ còn xuất hiện cả trong suy nghĩ của những người là Đảng viên, cán bộ nhà nước, những người đang sinh sống ở những thành phố lớn… Họ cố tình hiểu sai tinh thần của Pháp lệnh dân số: “Các cặp vợ chồng có quyền quyết định số con và thời điểm sinh con” (Điều 10) và Điều 4 của Pháp lệnh Dân số quy định nên sinh ít con nhưng không nói rõ số lượng là bao nhiêu. Vì thế, nhiều cặp vợ chồng muốn có con trai hoặc thích có nhiều con nên dù đã “có nếp, có tẻ” vẫn tiếp tục sinh thêm con.
- Với mong muốn có con trai, nhiều cặp vợ chồng áp dụng theo sách vở hoặc đến các bác sĩ tư để được tư vấn, hướng dẫn về chế độ ăn uống, sinh hoạt sao cho có kết quả. Tất cả những phương pháp này đều chưa được một nghiên cứu chính thức nào khẳng định nhưng sự trùng hợp ngẫu nhiên ở vài người đã khiến không ít các cặp vợ chồng tin tưởng và làm theo. Báo chí từng phản ánh, rất nhiều cặp vợ chồng làm theo chỉ dẫn của bác sĩ, sách vở nhưng không thành, dẫn đến nhiều bi kịch dở khóc dở cười.
- Ngoài ra, còn có nguyên nhân khác là việc hệ thống ủy ban dân số các tỉnh bị giải thể và sáp nhập cùng với ngành y tế khiến việc tuyên truyền, vận động kế hoạch hóa gia đình kém hiệu quả; Sinh con do tin đồn năm tốt, năm đẹp…
- Bên cạnh đó sự tiến bộ của ngành y tế hiện nay đã tạo điều kiện thuận lợi để các cặp vợ chồng có thể lựa chọn giới tính khi sinh. Theo UNFPA, trong số những bà mẹ sinh con vẫn còn sống từ tháng 04/2003, khoảng 2/3 được cán bộ y tế chăm sóc tiền sản cho biết giới tính của con trước khi sinh và 98% trong số này biết do siêu âm.
- Một nguyên nhân nữa đó là số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ 14 - 49 tuổi tăng nhanh. Nếu như vào năm 1989 chỉ có 17 triệu chị em bước vào độ tuổi sinh đẻ thì 10 năm sau, con số này đã là 22 triệu, đặc biệt vào năm 2009 là 26 triệu. Như vậy có nghĩa cứ 2 phụ nữ bước vào độ tuổi sinh đẻ mới có một người ra khỏi độ tuổi này.
- Mặt tại mục 1 Điều 4 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân hiện nay cho phép phụ nữ được nạo, phá thai theo nguyện vọng. Điều kiện nạo, phá thai còn đơn giản, thai phụ chỉ cần đủ sức khỏe và không có chống chỉ định. Điều này khiến các gia đình đã phá bỏ thai nếu giới tính của thai nhi không đúng ý muốn của gia đình.
Hệ quả của sự chênh lệch giới tính
Nhiều chuyên gia cảnh báo, với đà tăng dân số và sự chênh lệch giới tính ngày càng cao như hiện nay, trong những năm tới, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn:
Thứ nhất là tình trạng gia tăng dân số quá nhanh do nhu cầu có con trai, sự phân bố dân cư giữa các vùng chênh lệch lớn sẽ xảy ra tình trạng có nơi thiếu lao động, có nơi lại thừa lao động, từ đó dẫn đến sự di dân kéo về các tỉnh, thành phố lớn.
Thứ hai là sự chênh lệch giới tính ở trẻ sơ sinh sẽ dẫn đến tình trạng thừa nam, thiếu nữ, cùng với xu hướng lấy chồng ngoại ở nhiều tỉnh miền Tây, nạn buôn phụ nữ sang Trung Quốc ở các tỉnh phía Bắc… trong tương lai có thể Việt Nam sẽ phải “nhập khẩu cô dâu”, kéo theo việc gia tăng của tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em gái hay phụ nữ kết hôn sớm, thậm chí bỏ học giữa chừng và tệ nạn mại dâm.
Thứ ba là sự mất cân bằng giới tính sẽ làm thay đổi cơ cấu dân số trong lương lai; thiếu hụt phụ nữ ở độ tuổi lập gia đình dẫn đến một tỷ lệ nam giới sẽ phải trì hoãn việc xây dựng gia đình, đặc biệt là nam giới nghèo, vị thế xã hội thấp; cấu trúc gia đình thay đổi đáng kể (một số nam giới có thể phải lựa chọn hay rơi vào tình trạng sống độc thân); gia tăng tội phạm liên quan đến lạm dụng tình dục; tình trạng khan hiếm phụ nữ sẽ cản trở việc nâng cao địa vị của họ trong xã hội...
Một số giải pháp khẩn thiết
Để đảm bảo sự phát triển bền vững theo quy luật tự nhiên và hạn chế sự mất cân bằng giới tính khi sinh, theo chúng tôi cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau đây:
- Trước hết, cần tổ chức khảo sát, điều tra, đánh giá lại tình trạng mất cân bằng về giới tính của trẻ sơ sinh, qua đó chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.
- Cấp uỷ, chính quyền các cấp cần đẩy mạnh quán triệt và kiểm tra việc thực hiện quy định tại khoản 2, điều 7 của Pháp lệnh Dân số về việc sinh con thứ ba; quy định nghiêm và chặt chẽ hơn nữa trong việc công bố giới tính thai nhi tại các bệnh viện cũng như phòng khám tư; xử nghiêm các Đảng viên, cán bộ, công nhân viên cố tình sinh con thứ ba.
- Các cấp, các ngành, các cơ quan truyền thông cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới, lồng ghép nội dung bình đẳng giới vào các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao nhận thức của người dân về giới, hậu quả mất cân bằng giới khi sinh nhằm hạn chế các hành vi không phù hợp với sinh đẻ theo qui luật tự nhiên. Việc tuyên truyền được áp dụng không những đối với các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ mà còn đối với các cán bộ y tế nói chung và cán bộ làm công tác siêu âm, xét nghiệm, tư vấn, nạo thai nói riêng. Đối tượng này cần phải tuyên truyền vận động đầu tiên và liên tục bởi họ vừa là trực tiếp vừa là gián tiếp tham gia vào việc làm mất cân bằng giới tính. Nếu không có sự tham gia của cán bộ y tế thì các đối tượng mang thai không thể thực hiện hành vi lựa chọn giới tính, nghĩa là họ không thể nào biết để xử lý thai nhi theo ý muốn. Nhưng theo các nhà chuyên môn, rất khó để phát hiện hành vi này vì nó đang được thực hiện khá “tinh vi”. “Trường hợp nếu phát hiện vi phạm sẽ có thể rút giấy phép hành nghề”.
- Tuyên truyền để người dân tự giác chấp nhận quy mô gia đình nhỏ, “gái hay trai chỉ hai là đủ”. Để giải quyết vấn đề này không thể một sớm một chiều và không thể bằng một biện pháp đơn lẻ nào, mà phải bằng sự lồng ghép của nhiều chương trình, nhiều cấp, nhiều ngành và kiên trì với giải pháp quan trọng là tuyên truyền vận động thay đổi hành vi của cộng đồng, đồng thời với việc tăng cường sự quản lý của nhà nước bằng các biện pháp hành chính.
- Về lâu dài cần xây dựng Đề án can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh. Mục tiêu của Đề án là từng bước khống chế tốc độ gia tăng mất cân bằng, tiến tới ổn định cân bằng giới tính khi sinh. Theo đó, tăng cường cung cấp thông tin về giới và mất cân bằng giới tính khi sinh cho người dân, trước hết là các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, những người cung cấp dịch vụ siêu âm và dịch vụ nạo phá thai, những người có uy tín trong cộng đồng nhằm hạn chế các hành vi không phù hợp với sinh đẻ theo quy luật tự nhiên. Thực thi và hoàn thiện hệ thống pháp luật về các nội dung liên quan đến giới tính khi sinh. Khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ và trẻ em gái trong học tập, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phát triển sản xuất.
Nhưng có lẽ, trước khi có các chính sách, đối tượng cần được "giác ngộ" mạnh mẽ chính là những người cao tuổi trong xã hội và đối tượng tiềm năng là vị thành niên và thanh niên. Bởi chỉ khi họ hiểu, chia sẻ, cảm thông với người phụ nữ, thì gánh nặng sinh con trai theo ý muốn mới có thể "giảm tải" tốt nhất và tình trạng mất cân bằng giới tính. Ngoài ra, cũng cần có chính sách nâng cao phúc lợi, bảo hiểm xã hội cho người cao tuổi, đặc biệt, những người chỉ sinh con gái, từ đó giải tỏa tâm lý cha mẹ về già phải sống dựa vào con trai./.
ThS. BS Hoàng Trung Kiên
Phòng Khoa giáo, Ban Tuyên giáo Thành uỷ Hà Nội