Chủ trương của Đảng và Nhà nước về tự chủ trong GDĐH có vai trò quan trọng, giúp các cơ sở GDĐH phát huy nội lực, khả năng sáng tạo, hoạt động một cách có hiệu quả và từng bước đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết nguồn nhân lực có chất lượng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhìn chung, việc triển khai thực hiện chính sách tự chủ đã trở thành một nhu cầu tự thân, một xu thế tất yếu và có tính khách quan, vừa là mục tiêu, vừa là động lực giúp các cơ sở GDĐH phát huy tính chủ động, sáng tạo, tháo gỡ những vướng mắc về quản lý nhà nước, hoạt động của nhà trường, quản lý của bộ chủ quản. Việc triển khai thực hiện chính sách tự chủ cũng giúp các nhà trường quyết định cách thức và phương thức thực hiện sứ mạng, tự chịu trách nhiệm trước công chúng và pháp luật về mọi quyết định cũng như hoạt động của chính mình. Từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh, tạo ra một sức sống mới hướng tới cung cấp cho thị trường lao động nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi cấp thiết của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, hoàn thiện chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài công lập, thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới, chuyển đổi trường đại học công lập kém hiệu quả sang mô hình hợp tác công - tư”; “Tăng cường công tác kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục; xếp hạng các trường đại học. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học; phát triển cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao theo chuẩn khu vực và thế giới, ưu tiên nguồn lực phát triển các trường công nghệ”.
Tự chủ ĐH đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, thể chế hóa thành quy định, hướng dẫn khá đầy đủ. Nhận thức về tự chủ ĐH ngày càng rõ ràng, có nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống văn bản của Đảng và Nhà nước đã tạo hành lang pháp lý cho các trường ĐH thực hiện quyền tự chủ, bảo đảm hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước. Việc thực hiện tự chủ và trách nhiệm giải trình của các trường ĐH công lập bước đầu có kết quả nhất định, giúp giảm bớt các thủ tục hành chính, tăng tính chủ động, linh hoạt trong tổ chức thực hiện các hoạt động. Mô hình thí điểm tự chủ bước đầu được đánh giá tích cực ở một số cơ sở GDĐH, đạt được những thành tựu nhất định và được xã hội công nhận, góp phần đưa GDĐH Việt Nam từng bước hội nhập tốt hơn với GDĐH trên thế giới.
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TỰ CHỦ ĐẠI HỌC
Năm 2014, thực hiện Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động cho các trường ĐH công lập giai đoạn 2014-2017, đầu tiên áp dụng với 4 trường ĐH (Kinh tế Quốc dân, Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Ngoại thương và Đại học Hà Nội) cho thấy, các trường trở nên năng động hơn, nỗ lực hơn; không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế; nguồn tài chính được cải thiện, qua đó giảm được gánh nặng cho ngân sách nhà nước... Tiếp theo, 23 trường ĐH công lập thực hiện tự chủ trên nhiều mặt: nguồn nhân lực, tuyển sinh, đào tạo, tài chính, hợp tác quốc tế... Tuy nhiên, dưới góc độ thực thi các quyền tự chủ khác thì chủ yếu mới chỉ dừng lại trên các văn bản hành chính, việc triển khai thực hiện trong thực tế tại các trường trong toàn quốc còn rất hạn chế, các cơ quan nhà nước có chức năng vẫn thiếu các quy định cụ thể về tự chủ và quyền của các trường ĐH trong việc xác định quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường; nhiều quy định, văn bản pháp lý chưa thay đổi kịp thời để hỗ trợ các trường ĐH trong quá trình thực hiện tự chủ; nhiều trường chưa nhận được sự hướng dẫn cụ thể từ phía cơ quan quản lý nhà nước khi triển khai thí điểm tự chủ,…
Đến nay, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Luật GDĐH (Luật số 08/2012/QH13), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật GDĐH (Luật số 34/2018/QH14) của Quốc hội, Nghị định số 99/NĐ-CP thực hiện quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH... cả nước có 154/170 cơ sở GDĐH công lập đã thành lập hội đồng trường và đi vào hoạt động (đạt tỷ lệ 90,6%); trong đó, có 36/36 cơ sở GDĐH công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) đã thành lập hội đồng trường. Các trường trực thuộc các bộ, ngành, địa phương thành lập hội đồng trường đạt tỷ lệ 91,18%. 142/232 trường ĐH đủ điều kiện tự chủ theo quy định của Luật số 34/2018/QH14. Có 32,7% trường ĐH tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư; 13,7% trường đảm bảo chi thường xuyên. Tổng thu của các cơ sở GDĐH tự chủ tăng rõ rệt. Thu nhập bình quân tăng 20,8% đối với giảng viên và 18,7% đối với cán bộ quản lý.
Các cơ sở GDĐH tự chủ đã chủ động rà soát, kiện toàn lại tổ chức bộ máy và nhân sự theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Vai trò của hội đồng trường được cụ thể hóa và nâng cao trong tổ chức quản trị hoạt động của hầu hết các cơ sở GDĐH. Chủ động tăng số lượng giảng viên và giảm số lượng lao động khối hành chính; đồng thời, thu hút đội ngũ giảng viên, chuyên gia giỏi tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học với mục tiêu góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng quy mô, nâng cao thu nhập cho giảng viên; đẩy mạnh quá trình xã hội hóa giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp ứng đầy đủ hơn điều kiện giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng; liên kết với thị trường lao động, đào tạo đi vào thực chất; tăng cường kiểm soát các khoản chi, gia tăng tiết kiệm, bảo đảm tính hiệu quả trong quản lý và sử dụng nguồn lực.
Thực hiện tự chủ về chuyên môn học thuật mở ngành đào tạo/chương trình liên kết đào tạo ở các cơ sở GDĐH là một nội dung quan trọng trong hoạt động tự chủ, bên cạnh việc mở ngành đào tạo mới, phát triển các chương trình liên kết đào tạo trong và ngoài nước, các trường ĐH cũng tích cực điều chỉnh các chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu người học; đổi mới phương pháp giảng dạy tiên tiến, tiếp cận với chuẩn đào tạo và chương trình đào tạo quốc tế, chủ động tăng cường công tác bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục; tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong tuyển sinh, thu hút sinh viên giỏi. Quy mô tuyển sinh sinh viên hệ đại trà sau tự chủ có xu hướng giảm và thay vào đó là tăng quy mô tuyển sinh các chương trình đào tạo tiên tiến, đào tạo chất lượng cao, liên kết đào tạo với nước ngoài và đào tạo bằng tiếng Anh. Nhiều chương trình liên kết đào tạo với các trường ĐH trên thế giới, chương trình đào tạo tiên tiến tiếp tục được nhiều cơ sở GDĐH quan tâm phát triển. Tính đến tháng 12/2021, cả nước có 408 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đang hoạt động. Trong đó, các cơ sở sở GDĐH tự chủ đã phê duyệt tổng cộng 186 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, 124 chương trình ở trình độ ĐH; 58 chương trình ở trình độ thạc sĩ và 4 chương trình ở trình độ tiến sĩ.
Các cơ sở GDĐH ngày càng chủ động hơn trong việc quyết định hướng nghiên cứu và tham gia các nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH-CN), từ đó chuyển giao kết quả nghiên cứu KH-CN cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Tính riêng các trường trực thuộc Bộ GD-ĐT, số công bố khoa học quốc tế, công bố trong nước, sáng chế và tài sản trí tuệ khác tăng dần qua các năm; nhiều đề tài, nhiệm vụ đã đóng góp quan trọng, thiết thực cho các ngành công nghiệp, cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các địa phương. Số lượng cơ sở GDĐH được kiểm định ngày càng tăng. Tính đến ngày 30/6/2022, theo tiêu chuẩn trong nước, có 266 cơ sở giáo dục hoàn thành báo cáo tự đánh giá chu kỳ 1 và 22 cơ sở GDĐH hoàn thành tự đánh giá chu kỳ 2; 174 cơ sở GDĐH và 11 trường cao đẳng sư phạm được các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục; 705 chương trình đào tạo hoàn thành báo cáo tự đánh giá và 470 chương trình đào tạo được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục theo bộ tiêu chuẩn Bộ GD-ĐT tạo ban hành. Theo tiêu chuẩn nước ngoài, có 7 trường ĐH được đánh giá ngoài và được công nhận theo tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục của Hội đồng Cấp cao về Đánh giá nghiên cứu và GDĐH Pháp (HCERES) và AUN-QA; 308 chương trình đào tạo được đánh giá và công nhận bởi 10 tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài có uy tín.
Theo kết quả xếp hạng các quốc gia về lĩnh vực giáo dục năm 2021 của USNEWS, Việt Nam xếp thứ 59, tăng 5 bậc so với năm 2020, tuy nhiên vẫn xếp sau một số nước trong khu vực Đông Nam Á, như Singapore (hạng 21), Malaysia (38), Thái Lan (46), Indonesia (54), Philippines (55). Các cơ sở GDĐH Việt Nam tiếp tục được xếp hạng cao và tăng thứ bậc trên các bảng xếp hạng uy tín quốc tế. So với các năm trước, năm 2022 là một bước nhảy vọt khi có tới 5 đại diện của Việt Nam được lọt vào bảng xếp hạng THE; có 5 cơ sở GDĐH trong Bảng xếp các trường ĐH tốt nhất toàn cầu năm 2022 (Best Global Universities); có thêm 2 cơ sở GDĐH (tổng là 5 cơ sở) có tên trong bảng xếp hạng QS World University Rankings 2023; 10 cơ sở GDĐH trong bảng xếp hạng Webometrics; 5 cơ sở giáo dục trong bảng xếp hạng các trường ĐH ở các nền kinh tế mới nổi 2021 (THE Emerging Economies University Rankings 2021); 11 cơ sở GDĐH trong bảng xếp hạng đại học châu Á (QS Asian University Rankings 2022); 7 cơ sở GDĐH học tại bảng xếp hạng THE Impact Rankings năm 2022.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG THỰC HIỆN TỰ CHỦ ĐẠI HỌC
Thứ nhất, nhận thức của xã hội, của các cơ quan, cơ sở GDĐH đối với tự chủ ĐH; đối với vai trò, chức năng của hội đồng trường nhìn chung còn hạn chế, dẫn tới việc ban hành các định chế chồng chéo, mâu thuẫn và khó thực hiện, có sự nhầm lẫn giữa khái niệm tự chủ ĐH với tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Thực tiễn cho thấy, tự chủ ĐH là một quá trình phát triển cần có điều kiện, thời gian để chuyển đổi từ nhận thức, ý thức đến văn hóa, chất lượng trong hệ thống GDĐH và toàn xã hội. Sự đổi mới tư duy của các trường đại học vẫn là yếu tố quyết định thành công của tự chủ ĐH.
Thứ hai, khái niệm “Bộ chủ quản” hoặc “Cơ quan quản lý trực tiếp” còn nhiều tranh luận, tuy nhiên với hệ thống pháp lý hiện nay, nếu không còn vai trò bộ chủ quản nhì nhiều cơ sở GDĐH có thể sẽ lúng túng trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể mà từ trước đến nay vẫn do bộ chủ quản quyết định.
Thứ ba, việc phân định về vai trò, trách nhiệm của đảng ủy, hội đồng trường và ban giám hiệu trong các cơ sở GDĐH chưa đầy đủ, rõ ràng, dẫn tới vị thế của hội đồng trường, chủ tịch hội đồng trường trong một trường ĐH tự chủ còn mờ nhạt, chưa phát huy những quyền được quy định trong Nghị định số 99/NĐ-CP. Hội đồng trường được quy định nhiều quyền nhưng không gắn với trách nhiệm và lợi ích. Việc thực hiện chức năng giám sát điều hành và quản lý đối với ban giám hiệu, hiệu trưởng theo quyết nghị của hội đồng trường chưa thực hiện đầy đủ. Bộ máy giúp việc hội đồng trường chưa được thành lập và chưa có cơ chế hoạt động. Vai trò giám sát việc thực hiện các quyết nghị (về chiến lược phát triển; các kế hoạch, đề án; về bộ máy tổ chức, nhân sự; hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế...) chưa thực sự hiệu quả, mới chỉ dừng ở mức độ xem xét các báo cáo của ban giám hiệu mà ít thẩm định hoặc chất vấn, phản biện. Nhận thức của nhiều cán bộ, giảng viên và bản thân các thành viên hội đồng trường còn hạn chế, nhiều thành viên hội đồng trường chưa hiểu rõ chức năng và thể thức hoạt động của hội đồng trường cũng như trách nhiệm, quyền hạn của mình.
Thứ tư, chính sách tự chủ ĐH về tổ chức, liên kết đào tạo, tài chính, nghiên cứu khoa học chưa tạo động lực cho sự phát triển cho các trường ĐH công lập. Chính sách sử dụng nguồn lực (con người, tài chính…) để phát huy hiệu quả của các nguồn lực từ ngân sách, từ các nhà đầu tư, từ doanh nghiệp làm đổi mới mô hình quản trị, quản lý chưa thật hiệu quả. Các công cụ chính sách thực hiện các nội dung tự chủ còn hạn chế, chẳng hạn về tự chủ bộ máy tổ chức nhân sự hiện nay nhiều cơ sở GDĐH chưa được tự chủ trong lựa chọn, bổ nhiệm, bãi nhiệm người đứng đầu. Điều kiện thực hiện tự chủ chủ yếu mới chỉ tiếp cận từ góc độ tổ chức nhân sự, tài chính và tài sản, hầu như chưa tính đến tự chủ về chuyên môn, học thuật. Hơn nữa, tự chủ tài chính là một nội dung quan trọng trong thực hiện tự chủ, nhưng thực tế, nhiều cơ sở GDĐH lại đang rất vất vả thực hiện, đặc biệt đối với cơ sở ĐH công lập. Song song với giao quyền tự chủ và thực hiện quyền tự chủ là tự chịu trách nhiệm của các cơ sở GDĐH. Quyền tự chủ đến đâu thì trách nhiệm tương xứng tới đó. Sự cân bằng giữa quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình trở thành một chính sách hết sức quan trọng trong quản trị cơ sở giáo dục đối với nhiều quốc gia. Trách nhiệm giải trình không đơn thuần chỉ mang ý nghĩa “chịu trách nhiệm”, mà còn là “công khai, minh bạch thông tin” và trách nhiệm giải trình bằng những minh chứng cụ thể, định tính, định lượng về hoạt động của nhà trường, phải được đo lường bởi các tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể.
Chính vì vậy, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục và Luật GDĐH sao cho phù hợp với những điều kiện thực tiễn và có hiệu quả nhất, bảo đảm chính sách, pháp luật về tự chủ phải đồng bộ và cụ thể. Hiện nay, khung pháp lý về tự chủ không phải chỉ nằm gọn trong Luật GDĐH, hoạt động GDĐH còn chịu sự điều chỉnh trực tiếp trong các bộ luật liên quan khác như Luật Cán bộ công chức và viên chức, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách, Luật KH-CN, Luật Quản lý tài sản công... dẫn đến chồng chéo, vướng mắc cho các cơ sở GDĐH thực hiện tự chủ. Chẳng hạn, Luật Quản lý tài sản công không đồng bộ với Luật GDĐH cho phép cơ sở giáo dục được sử dụng nguồn thu hợp pháp ngoài ngân sách. Luật Ngân sách không đồng bộ với việc hội đồng trường được phê duyệt kế hoạch, quyết toán tài chính... Do đó, cần nghiên cứu nâng cao mức chi từ ngân sách nhà nước cho GDĐH, đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách theo hướng chi đặt hàng các trường ĐH trong việc nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và chi trực tiếp cho người học.
Thứ năm, tự chủ không phải đơn thuần là tập trung vào yếu tố tự chủ, tăng quyền cho hiệu trường, mà cần phải trao thêm quyền tự chủ cho các nhà khoa học, giảng viên để khai thác tốt hơn năng lực và tạo môi trường sáng tạo tri thức cho đội ngũ này. Vì vậy, phát triển đội ngũ giảng viên theo hướng tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội; thực hiện tiêu chuẩn cán bộ quản lý, giảng viên, các nhà nghiên cứu khoa học; nhanh chóng xây dựng quy chế tuyển dụng, làm việc, đề bạt cán bộ quản lý, giảng viên và nghiên cứu viên để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên trong quản lý, giảng dạy và nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện cho công tác quản lý và điều hành hoạt động của cơ sở GDĐH hiệu quả, huy động các nguồn lực phục vụ cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học phù hợp với nhu cầu thực tế của xã hội.
Thứ sáu, yếu tố mấu chốt tạo sự đột phá trong công tác đào tạo, nâng cao chất lượng GDĐH không phải chủ yếu tiếp cận từ góc độ tự chủ về tổ chức nhân sự, tài chính và tài sản mà phải tập trung sâu vào tự chủ về chuyên môn và học thuật. Do đó, điều kiện tiên quyết thực hiện thành công tự chủ là các cơ sở GDĐH phải thường xuyên đổi mới chương trình đào tạo theo hướng gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, nâng cao kỹ năng thực hành cho cả người dạy và người học; đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng lấy người học làm trung tâm; tăng cường liên kết với doanh nghiệp; liên thông đào tạo giữa các ngành, các trường trong và ngoài nước; mở các ngành học mới theo nhu cầu của thực tiễn và theo hướng đa dạng hóa các ngành nghề đào tạo.
Thứ bảy, thiết lập một hệ thống GDĐH mở, công bằng, bình đẳng, chất lượng, hiệu quả và phục vụ nhu cầu học tập suốt đời; đáp ứng nhu cầu về nhân lực chất lượng cao, tăng cường ứng dụng và chuyển giao KH-CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước; bảo đảm đầu tư công bằng, khách quan, khoa học, công khai, minh bạch và hiệu quả làm cơ sở huy động nguồn lực xã hội phát triển mạng lưới cơ sở GDĐH. Vì vậy, phải khẩn trương triển khai quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở GDĐH để phân định một cách rõ ràng và chi tiết các chức năng cơ bản, nhiệm vụ cụ thể và sứ mệnh cốt lõi của các trường ĐH công lập địa phương theo các khung yêu cầu phù hợp, nhiệm vụ thực tế và xu hướng phát triển GDĐH là đào tạo theo địa chỉ của các bên có nhu cầu. Các cơ sở GDĐH công lập địa phương nên cung cấp các gói dịch vụ đào tạo và chuyển giao KH-CN theo địa chỉ cụ thể của các bên có nhu cầu trên cơ sở tiềm lực thực tế và điều kiện của mình. Đây là một trong những lợi thế quan trọng nhất của các trường ĐH công lập địa phương. Các doanh nghiệp hiện nay cũng ưu tiên ký kết các hợp đồng đào tạo và cung ứng nguồn lao động chất lượng cao theo đúng nhu cầu công việc và vị trí việc làm cụ thể. Làm tốt công tác này, các trường ĐH công lập địa phương vừa giải quyết được vấn đề đầu ra, vừa tạo dựng được niềm tin và nâng cao tính hấp dẫn của các ngành học đối với người học. Các trường ĐH công lập địa phương phải đẩy mạnh hợp tác với các nền giáo dục tiên tiến và tổ chức KH-CN hiện đại để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực mà thị trường lao động đang có nhu cầu lớn; xây dựng mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ ĐH theo hướng hội nhập quốc tế để khẳng định chất lượng đào tạo, đồng thời cũng tăng cường năng lực hội nhập quốc tế.
Thứ tám, kiểm định chất lượng giáo dục được coi là phương thức để bảo đảm cân bằng giữa tự chủ và nghĩa vụ giải trình và chịu trách nhiệm. Việc sử dụng hiệu quả công quỹ (với trường công lập) và học phí phải gắn với đánh giá và đo lường hiệu suất trong quá trình theo dõi các hoạt động của một trường ĐH. Việc kiểm soát, kiểm định và công nhận chất lượng phải được thực hiện bởi một tổ chức độc lập. Qua đó thúc đẩy các trường ĐH xây dựng một hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ hiệu quả và bao phủ toàn bộ các hoạt động, thay cho việc ban hành các định chế.
Trong bối cảnh hội nhập, với xu hướng tự chủ ĐH trên thế giới ngày càng mở rộng thì vấn đề cấp bách hiện nay là Việt Nam phải có những giải pháp thiết thực để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các cơ sở GDĐH; việc quản trị ĐH cần phải có những cải cách thực chất hơn nữa để các cơ sở GDĐH tự kiểm soát hành vi, tự chịu trách nhiệm, giải phóng những năng lực, khả năng, tiềm năng từ nội tại, mở đường cho sự sáng tạo trong mọi hoạt động./.
TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội
TS. NGÔ ĐÌNH SÁNG
Ban Tuyên giáo Trung ương