Chủ Nhật, 8/12/2024
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống
Thứ Hai, 14/12/2020 15:45'(GMT+7)

Một số vấn đề về nâng tầm tổng kết công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII để bổ sung, phát triển lý luận xây dựng Đảng

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chủ trì họp Bộ Chính trị về việc tiếp thu ý kiến hoàn thiện các dự thảo văn kiện của Đảng, chuẩn bị trình Hội nghị Trung ương lần thứ 14 khóa XII xem xét, quyết định. (Ảnh: TTXVN)

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chủ trì họp Bộ Chính trị về việc tiếp thu ý kiến hoàn thiện các dự thảo văn kiện của Đảng, chuẩn bị trình Hội nghị Trung ương lần thứ 14 khóa XII xem xét, quyết định. (Ảnh: TTXVN)

Đại hội XIII của Đảng có nhiệm vụ tổng kết 35 năm đổi mới, nhìn lại 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 2011 (bổ sung, phát triển), đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII để xác định tầm nhìn đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), mục tiêu phát triển đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam), mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ phát triển đến năm 2025. Xuyên qua và thấm sâu vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước qua 35 năm đổi mới và thành tựu của nhiệm kỳ Đại hội XII chính là thành công của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Thành công nổi bật của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII rất cần được tổng kết để bổ sung, phát triển lý luận. Làm tốt công việc này không chỉ cắt nghĩa được nguyên nhân sâu xa của mọi thành tựu, mà còn làm rõ mối liên hệ giữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng với sự phát triển tổng thể mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Có mấy vấn đề sau đây cần chú trọng nâng tầm tổng kết:

1. ĐÁNH GIÁ ĐÚNG TẦM VỀ VỊ TRÍ "THEN CHỐT", TẦM QUAN TRỌNG ĐẶC BIỆT CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG TỔNG THỂ MỌI MẶT CÔNG TÁC CÁCH MẠNG, MỌI THÀNH TỰU CỦA NHIỆM KÝ ĐẠI HỘI XII

Từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng ta đã đúc kết thành tư tưởng chỉ đạo công cuộc đổi mới: xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.

Công tác xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ “then chốt”, bởi nó giữ vị trí cực kỳ quan trọng, quyết định sự thành bại của cách mạng, sống còn của chế độ, bảo đảm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị. Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mọi thành công của sự nghiệp cách mạng đều bắt nguồn từ vai trò lãnh đạo của Đảng, từ sự dày công chăm lo công tác xây dựng Đảng, nhất là đề ra đường lối đúng đắn, sáng suốt và xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm để tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối. Ngược lại, những sai lầm, khuyết điểm đều có nguyên nhân cơ bản bắt nguồn từ việc không chú trọng đúng mức công tác xây dựng Đảng, xem nhẹ hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Kinh nghiệm chỉ ra rằng, việc thực hiện nhiệm vụ chính trị đạt kết quả tốt, hiệu quả cao bao giờ cũng tỷ lệ thuận với sự nhận thức và mức độ chú trọng công tác xây dựng Đảng; còn lúc nào và ở đâu xem nhẹ công tác xây dựng Đảng thì sớm hay muộn cũng vấp phải sai lầm, khuyết điểm, trong đó có những sai lầm, khuyết điểm không có cơ hội sửa chữa, khắc phục. Sai phạm của các tổ chức, cá nhân được phát hiện và bị xử lý thời gian qua đều có nguyên nhân phổ biến là xem nhẹ công tác xây dựng Đảng, thoát ly vai trò lãnh đạo của tập thể, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.

Nhận thức rõ vị trí “then chốt”, tầm quan trọng đặc biệt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đối với toàn bộ sự nghiệp đổi mới, trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, hướng vào những khâu trọng yếu bảo đảm và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhìn lại toàn bộ nhiệm kỳ cho thấy, đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thúc đẩy sự phát triển các lĩnh vực khác, được cán bộ, đảng viên và nhân dân theo dõi, mong đợi, tin tưởng. Đặc biệt, việc định hình cơ chế làm việc định kỳ hằng tháng của lãnh đạo chủ chốt và đổi mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp,... đã trực tiếp nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng. Nhờ đó mà các quyết định chính trị của Đảng luôn được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện; bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; tăng cường và nâng cao hiệu quả lãnh đạo hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Một điểm nhấn quan trọng của nhiệm kỳ là sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, lấy đoàn kết trong Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp làm hạt nhân, trước hết là sự gương mẫu của người đứng đầu, để làm cơ sở củng cố mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Tính “then chốt” của công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ còn thể hiện ở khả năng đột phá, mở đường của công tác này để giải quyết nhiều vấn đề khó, phức tạp, nhạy cảm. Công tác cán bộ được đổi mới, đội ngũ cán bộ được chăm lo xây dựng bài bản, nhất là cán bộ cấp chiến lược, làm cho vị trí “then chốt của then chốt” của công tác cán bộ được khẳng định đầy đủ hơn, rõ hơn, đóng vai trò quyết định đối với thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ của các cấp, các ngành, tổ chức, cơ quan, đơn vị. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được đẩy mạnh đã thúc đẩy đổi mới, nâng cao tính đồng bộ của công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để siết chặt kỷ luật, kỷ cương. Thực hiện quy định nêu gương, đấu tranh chống tiêu cực, quan liêu, tham nhũng đã thúc đẩy liêm chính công vụ, liêm chính kinh doanh, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Chống tham nhũng không có vùng cấm, không có ngoại lệ đã tạo môi trường lành mạnh cho những doanh nghiệp làm ăn chân chính yên tâm đầu tư, kinh doanh, cảnh báo và răn đe các “nhóm lợi ích” tìm cách trục lợi chính sách và giành lợi thế trong tiếp cận các nguồn lực phát triển, gây bất công trong phân bổ nguồn lực xã hội.

Thực tế nêu trên để lại cho chúng ta những bài học kinh nghiệm quý về công tác xây dựng Đảng, nhất là phải nhận thức đầy đủ và đặt đúng vị trí “then chốt” của công tác xây dựng Đảng trong toàn bộ công cuộc đổi mới toàn diện. Càng thúc đẩy đổi mới đồng bộ, toàn diện, càng phải thật sự chú trọng công tác xây dựng Đảng với sự chăm lo từ Trung ương đến mỗi chi bộ, từ người đứng đầu Đảng đến mỗi đảng viên. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là cơ sở để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị; phải luôn hết sức coi trọng, không được một phút lơ là, xem nhẹ công tác xây dựng Đảng.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng với các đại biểu dự Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng và xác định phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng. (Ảnh: TTXVN)

2. LÀM RÕ TÍNH TRỌNG TÂM, TRỌNG ĐIỂM TRONG KHI TIẾN HÀNH XÂY DỰNG ĐẢNG TOÀN DIỆN

Đại hội XII trong khi xác định những nhiệm vụ cụ thể, toàn diện(1) của công tác xây dựng Đảng đã chỉ rõ các nhiệm vụ trọng tâm là: ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu(2).

Tính toàn diện đòi hỏi công tác xây dựng Đảng phải bao quát toàn bộ mọi mặt, không thể xem trọng mặt này mà xem nhẹ mặt khác. Bởi vì, mỗi mặt của công tác xây dựng Đảng có vai trò, vị trí riêng, có mối quan hệ biện chứng với mặt  khác, cùng cộng hưởng sức mạnh để nâng cao hiệu quả tổng hợp. Chỉ một mặt, một khâu không được chú trọng sẽ cản trở đến mặt khác, khâu khác và ảnh hưởng đến kết quả tổng thể. Hơn nữa, phải trên cơ sở tiến hành xây dựng Đảng toàn diện mới phát hiện được những mặt chủ yếu, những mối liên hệ bản chất để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và ưu tiên nguồn lực giải quyết. Tính toàn diện khác với lối chiết trung chủ nghĩa, dù bao quát đầy đủ các mặt, nhưng chỉ là sự gán ghép chúng một cách khiên cưỡng, cơ học mà không chỉ ra được mặt chủ yếu, không tập trung được vào những vấn đề mang tính bản chất. Tính toàn diện cũng đối lập với tính phiến diện, chỉ nhìn thấy một mặt nào đó, thậm chí đó là mặt thứ yếu, không cho phép nhận diện mọi mặt trong mối liên hệ phổ biến, nên khi giải quyết tổng thể và xử lý trong thực tiễn thường rơi vào chủ quan sai lầm, không đạt được kết quả như mong muốn.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII đã thể hiện tính toàn diện và tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn và hành động quyết liệt. Các nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã hướng vào giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách và đã đạt được kết quả rõ nét, tạo điều kiện mở đường, đột phá cho các lĩnh vực khác. Việc củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất nội bộ, nâng cao bản lĩnh chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,... là cơ sở để nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảng, nhất là xử lý những vấn đề khó khăn, phức tạp về đối ngoại và đối nội. Việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thực hiện tự phê bình và phê bình có tác dụng chỉnh đốn những biểu hiện lệch lạc về nhận thức, buông thả về lối sống, xuống cấp về đạo đức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Công tác xây dựng Đảng về đạo đức trong nhiệm kỳ Đại hội XII được xem là sự bổ sung, phát triển luận điểm “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được kết hợp nhuần nhuyễn với tăng cường hiệu lực kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước để tạo nên hiệu quả tổng hợp trong giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Việc ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tảng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, được triển khai quyết liệt góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối của Đảng, tạo sự thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng. Đổi mới và chỉnh đốn công tác tổ chức và cán bộ có tác dụng lập lại kỷ cương, khắc phục có hiệu quả tình trạng “chạy chức, chạy quyền”, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế đã tạo môi trường lành mạnh cho cán bộ phấn đấu, cống hiến, phát triển, giảm các đầu mối trung gian ảnh hưởng đến sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý tập trung thống nhất, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị. Đội ngũ cán bộ cấp chiến lược được chú trọng đặc biệt và tiến hành chăm lo xây dựng bài bản, tạo chuyển biến rõ nét, làm cho khâu “then chốt” của nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng được nâng tầm và khẳng định rõ nét. Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc tham nhũng, lãng phí được chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả, làm cho kỷ luật của Đảng, nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa được tăng cường và có hiệu lực trên thực tế. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được tiến hành với quyết tâm chính trị rất cao và đạt nhiều kết quả rất quan trọng, với nhiều dấu ấn nổi bật, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, cảnh báo, răn đe với những ai coi thường kỷ cương, phép nước, củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ.

Thực tế nêu trên nhắc nhở chúng ta rằng, bất cứ lúc nào và ở đâu cũng phải  chú trọng xây dựng Đảng toàn diện, có cách làm đúng, bài bản, khoa học, tiến hành có trọng tâm, trọng điểm với bước đi và lộ trình phù hợp. Phải phòng ngừa lối chiết trung chủ nghĩa, chỉ đặt bề bộn, dàn hàng ngang mọi vấn đề, không xác định rõ nội dung chủ yếu, nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột phá, làm phân tán nguồn lực và thực hiện không hiệu quả. Đồng thời, phải chống bệnh phiến diện trong công tác xây dựng Đảng, chỉ nhìn thấy và xử lý một mặt, một bộ phận, thậm chí chỉ là bộ phận thứ yếu, không tác động trúng bản chất vấn đề, rơi vào chủ nghĩa hình thức và do đó không đưa lại hiệu quả như mong muốn.

Các học viên nhận giấy chứng nhận tốt nghiệp Lớp bồi dưỡng kiến thức mới cho cán bộ quy hoạch cấp chiến lược khóa XIII của Đảng. (Nguồn: TTXVN)

3. TỔNG KẾT CÁC MỐI QUAN HỆ LỚN PHẢN ÁNH NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG

Từ thực tiễn công tác xây dựng Đảng của các nhiệm kỳ gần đây, nhất là nhiệm kỳ Đại hội XII, cần làm sâu sắc các mối quan hệ lớn phản ánh những vấn đề có tính quy luật của công tác xây dựng Đảng, chí ít là các mối quan hệ sau:

Một là, giữa kiên định lập trường, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc với đổi mới.

Thành công của công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ có một lý do cơ bản bắt nguồn từ việc xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kiên định và đổi mới. Đảng ta khẳng định nhất quán đường lối đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định các nguyên tắc đổi mới. Kiên định là giữ vững lập trường, nguyên tắc, không ngả nghiêng, dao động trong bất kỳ hoàn cảnh nào, bảo đảm công cuộc đổi mới vận hành đúng phương hướng với bước đi, lộ trình phù hợp và vững chắc. Kiên định lập trường, nguyên tắc không những không triệt tiêu, mà trái lại luôn khuyến khích tìm tòi đổi mới. Tìm tòi đổi mới ở bất cứ lĩnh vực nào và ở đâu cũng luôn đòi hỏi phải kiên định lập trường, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc để có nền tảng tư tưởng vững chắc, có phương hướng đúng đắn và phấn đấu cho những mục tiêu tốt đẹp. Vì vậy, kiên định lập trường, nguyên tắc phải gắn liền với chống bảo thủ, trì trệ; tìm tòi đổi mới phải đi liền với chống cơ hội chính trị dưới mọi màu sắc.

Hai là, giữa tập trung và dân chủ, càng phát huy dân chủ rộng rãi càng phải tăng cường tính tập trung thống nhất. 

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng ta đã có bước tiến quan trọng trong cụ thể hóa, thể chế nguyên tắc tập trung dân chủ, nhất là trên một số vấn đề trọng yếu, như tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách, lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương và phát huy vai trò chủ động, tích cực của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp,... Thành công trong xử lý những vấn đề khó, phức tạp, nhạy cảm, như chống tham nhũng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, chống chạy chức, chạy quyền, tăng cường hiệu lực kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng,... đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Trung ương với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt rồi tạo chuyển biến đến cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; từ bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể gắn liền với đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu. Chính nhờ phát huy dân chủ mà tính tích cực, vai trò, trách nhiệm của đảng viên trong mọi mặt công tác xây dựng Đảng được nâng cao; tính tập trung được tăng cường bảo đảm sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, huy động và phân phối, sử dụng có hiệu quả nguồn lực. Thực tế đó khẳng định, tập trung và dân chủ là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ biện chứng, không thể cường điệu hóa mặt này mà xem nhẹ mặt kia. Tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với phân tán, tùy tiện, vô chính phủ; dân chủ không đối lập với tập trung mà chỉ đối lập với độc đoán, chuyên quyền. Càng phát huy dân chủ rộng rãi càng phải tăng cường tính tập trung thống nhất. Tính tập trung thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm cho phát huy dân chủ thực chất, không rơi vào dân chủ hình thức hoặc tùy tiện, vô tổ chức, dân chủ cực đoan.

Các đại biểu bỏ phiếu bầu trực tiếp Bí thư tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bình Liêu lần thứ XXVIII, nhiệm kỳ 2020-2025. (Nguồn: baoquangninh.com.vn)

 Ba là, giữa tăng cường vai trò lãnh đạo tập thể với đề cao trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu.

Thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp do Đại hội XII đề ra, Đảng ta đã có nhiều nỗ lực cụ thể hóa, thể chế  hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thể hiện rõ nhất ở Quy chế bầu cử trong Đảng, quy trình công tác cán bộ 5 bước, quy chế làm việc của cấp ủy các cấp,... gắn với hoàn thiện chế độ đánh giá cán bộ, kiểm điểm trách nhiệm tập thể và cá nhân, tự phê bình và phê bình, lấy phiếu tín nhiệm. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã đi tiên phong trong đổi mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc để phát huy hiệu quả vai trò lãnh đạo tập thể, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu. Đây cũng là lần đầu tiên ban hành Quy chế làm việc mẫu của tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương, xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân trong lãnh đạo, chỉ đạo. Những đổi mới quan trọng đó không chỉ có ý nghĩa phát huy vai trò lãnh đạo của tập thể, kiểm soát quyền lực cá nhân, hạn chế lạm quyền, mà còn đề cao trách nhiệm cá nhân tham gia cùng tập thể thảo luận và quyết định các chủ trương, nhất là trách nhiệm trong tổ chức thực hiện nghị quyết. Các vụ việc sai phạm từ một số nhiệm kỳ trước bị phát hiện xử lý kỷ luật thời gian qua đều có một khuyết điểm cơ bản là buông lỏng vai trò lãnh đạo tập thể và cá nhân người đứng đầu vi phạm nguyên tắc, vi phạm quy chế làm việc, lạm quyền khi quyết định các chủ trương, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước. Do đó, xử lý hài hòa giữa tăng cường vai trò lãnh đạo tập thể và đề cao trách nhiệm cá nhân là bài học lớn rút ra từ các nhiệm kỳ gần đây. Nếu xem nhẹ vai trò lãnh đạo tập thể không những không phát huy được đầy đủ trí tuệ tập thể, mà còn làm suy yếu cơ chế kiểm soát quyền lực của tập thể đối với cá nhân. Ngược lại, nếu chỉ nhấn mạnh lãnh đạo tập thể mà xem nhẹ trách nhiệm cá nhân người đứng đầu sẽ tạo môi trường dung dưỡng tâm lý dựa dẫm, ỷ lại tập thể, không rõ địa chỉ cá nhân khi giao nhiệm vụ và đánh giá kết quả thực hiện, không xác định được người chịu trách nhiệm khi có khuyết điểm, sai phạm.

Bốn là, giữa củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng với đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, đấu tranh với cái sai, bảo vệ cái đúng.

Đoàn kết thống nhất là truyền thống cực kỳ quý báu và là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng ta. Khi có sự đoàn kết thống nhất thì triệu người như một, bản chất là thống nhất về lợi ích chung, thống nhất giữa tư tưởng và hành động, tạo thành sức mạnh to lớn làm nên mọi thắng lợi. Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, đoàn kết thống nhất trước hết thể hiện trong các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, cấp ủy viên các cấp, nhất là sự gương mẫu của người đứng đầu. Đây là cơ sở để quyết định và tổ chức thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, kể cả những nhiệm vụ  khó khăn, phức tạp. Thực tế cho thấy, để có đoàn kết thật sự thì phải thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình, dũng cảm đấu tranh với cái sai, bảo vệ cái đúng, hình thành tập thể thống nhất dựa trên ý thức trách nhiệm về lợi ích chung. Tự phê bình và phê bình làm cho đoàn kết không xuôi chiều, mà mỗi tập thể và cá nhân luôn đủ bản lĩnh đối mặt với khuyết điểm của mình, đủ dũng khí bày tỏ thái độ trước khuyết điểm của đồng chí, rồi giúp nhau sửa chữa, khắc phục. Bao giờ và ở đâu, trong mọi công việc cách mạng của Đảng cũng có người tiên phong, có người trung bình chủ nghĩa, có người chậm tiến. Tự phê bình và phê bình, đấu tranh với cái sai, bảo vệ cái đúng, làm cho những người tiên phong luôn được khẳng định, ngày càng ảnh hưởng lan tỏa, lôi cuốn những người trung bình chủ nghĩa và thúc đẩy chuyển biến những người chậm tiến, nhờ đó mà cái tích cực, tiến bộ ngày càng nhiều thêm và chiếm số đông - cơ sở cho đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động.

Năm là, giữa siết chặt kỷ luật, kỷ cương với khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung.

Đảng ta là đảng cách mạng, sức mạnh của Đảng dựa trên kỷ luật, kỷ cương nghiêm minh và không ngừng khuyến khích tìm tòi, đổi mới, năng động, sáng tạo. Trước tình trạng suy thoái và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ảnh hưởng đến uy tín, năng  lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ, thì siết chặt kỷ luật, kỷ cương là yêu cầu cấp bách trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương được tiến hành toàn diện, đồng bộ, tập trung vào các điểm trọng tâm như: Kỷ luật nói và viết đúng Cương lĩnh, đường lối của Đảng; chống “chạy chức, chạy quyền”; phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm nguyên tắc; chống tham nhũng không có vùng cấm, không có ngoại lệ... Trong khi toàn Đảng siết chặt kỷ luật, kỷ cương thì ở nơi này hay nơi khác có biểu hiện lấy cớ thể chế chưa hoàn thiện, đột phá không có cơ chế bảo vệ, để né tránh trách nhiệm, làm việc cầm chừng, triệt tiêu đổi mới, sáng tạo, gây nên trì trệ. Vì vậy, siết chặt kỷ luật, kỷ cương và khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung là hai mặt của một vấn đề cần phải được nhận thức và xử lý thấu đáo. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương không phải là thu hẹp không gian tìm tòi cái mới, kìm hãm óc sáng tạo, mà tạo lập môi trường lành mạnh cho mọi tìm tòi đổi mới, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám đột phá diễn ra đúng đắn. Sự năng động, sáng tạo, đột phá vì lợi ích chung luôn cần đến kỷ luật, kỷ cương; không chỉ để khuyến khích cái mới, bảo vệ cái đúng, bảo vệ những người đổi mới với động cơ trong sáng, vì lợi ích chung; mà còn vạch rõ cái sai, xử lý những người vi phạm nguyên tắc, lợi dụng lỗ hổng của cơ chế để trục lợi. Không thể cho phép núp bóng “đổi mới”, “đột phá” để mưu lợi cá nhân, vi phạm nguyên tắc, vi phạm kỷ cương, phép nước, khi bị xử lý kỷ luật thì ngụy biện như đã từng thấy qua nhiều vụ việc thời gian qua. Lịch sử Đảng ta thời kỳ đầu đổi mới cho thấy, không ít đồng chí lãnh đạo cao cấp đã dũng cảm đột phá vào cơ chế bao cấp trong điều kiện thể chế bảo vệ cơ chế ấy vẫn tồn tại, nhưng khi ý tưởng đổi mới đó xuất phát từ động cơ trong sáng, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì lợi ích của quốc gia  - dân tộc, của nhân dân, thì đều thuyết phục được tập thể, được tổ chức chấp thuận, bảo vệ để triển khai và đem lại hiệu quả trên thực tế.

Sáu là, mối quan hệ giữa xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng được tiến hành đồng thời và đan xen nhau. Trọng tâm của chỉnh đốn Đảng là tập trung vào các vấn đề quan trọng và cấp bách nổi lên: ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống “chạy chức, chạy quyền”; sắp xếp lại, tinh gọn tổ chức bộ máy; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình gắn với thực hiện trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Việc xử lý hài hòa giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng đã đưa lại những kết quả rất quan trọng của công tác xây dựng Đảng, nhất là đột phá vào những vấn đề khó, phức tạp, nhạy cảm đã thực hiện từ nhiều nhiệm kỳ trước ít có kết quả.

Kinh nghiệm chỉ ra rằng, xây dựng Đảng bao giờ cũng phải được xem là công việc cơ bản, thường xuyên; chỉnh đốn Đảng được đặt ra cấp bách khi xuất hiện tình hình đặc biệt cần có giải pháp đặc biệt. Chỉnh đốn Đảng không có mục tiêu tự thân mà nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Khi gặp thuận lợi, phải chỉnh đốn Đảng để tránh tư tưởng chủ quan, tự mãn, ngủ quên trên vòng nguyệt quế, như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng luôn nhắc nhở. Khi gặp khó khăn, càng phải chỉnh đốn Đảng để xốc lại tinh thần, củng cố hàng ngũ, siết chặt kỷ luật, đưa cách mạng vượt qua khó khăn và vững bước tiến lên. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn phải tuân thủ nguyên tắc, bám sát thực tiễn, có cách làm bài bản, khoa học, tránh gây rối loạn tổ chức hoặc tạo sơ hở để bên ngoài lợi dụng chia rẽ nội bộ, chống phá chế độ.

*         *         *

Tiếp nối mạch nguồn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ trước đây trên quan điểm kế thừa và phát triển, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII đã được tiến hành toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm và đạt được những kết quả rất quan trọng, nổi bật với dấu ấn rõ nét. Kết quả nổi bật, dấu ấn rõ nét đó không chỉ nhờ quyết tâm chính trị cao, chủ trương đúng đắn, mà còn do cách làm bài bản, thể hiện khoa học và nghệ thuật lãnh đạo của Đảng. Nâng tầm tổng kết công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII sẽ cho phép đúc kết những bài học kinh nghiệm có giá trị chỉ đạo thực tiễn và bổ sung, phát triển lý luận công tác xây dựng Đảng thời kỳ mới./.

___________________

(1) Những nhiệm vụ toàn diện của công tác xây dựng là: Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị; Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận; Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng; Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị; Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên; Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ; Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr. 217

Trần Quốc Vượng
Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng

(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất