Thứ Bảy, 27/7/2024
Nghiên cứu
Thứ Hai, 29/4/2024 6:0'(GMT+7)

Một số yếu tố tác động đến công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với hoạt động của chính quyền cấp cơ sở

Hội nghị phản biện xã hội đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức ngày 15/9/2022.

Hội nghị phản biện xã hội đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức ngày 15/9/2022.

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC (MTTQ) ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP CƠ SỞ

Từ quan điểm chỉ đạo của Đảng

Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đã đề ra yêu cầu cần nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở cấp cơ sở. Theo đó, "... những quyết định quan trọng ở cấp cơ sở có quan hệ đến đông đảo nhân dân cần đưa các phương án khác nhau và thông qua những hình thức phù hợp để nhân dân thảo luận và biểu quyết, Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) chấp hành theo kết quả biểu quyết đó; định kỳ HĐND và UBND xã, phường phải có báo cáo công khai với nhân dân về những việc đã làm, tình hình sử dụng tài sản, tài chính, ngân sách, các khoản đóng góp của dân, quyết toán các công trình xây dựng cơ bản; hàng năm HĐND và UBND có báo cáo tổng kết công tác, thông qua những hình thức phù hợp, thông qua MTTQ và các đoàn thể để phê bình, tự phê bình trước nhân dân và đề nghị nhân dân nhận xét đánh giá".

Tiếp đó, ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị khoá VIII đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị nêu rõ:

"Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất". Chỉ thị yêu cầu: "Tổ chức Đảng và đảng viên phải gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tổ chức Đảng phải làm cho đảng viên thông suốt nhận thức, tư tưởng; đảng viên, nhất là các đảng viên có chức vụ trong chính quyền phải gương mẫu tự phê bình và phê bình nghiêm túc trong đảng bộ và trong nhân dân. Qua tự phê bình trong nội bộ và qua phê bình nhận xét của nhân dân, biểu dương những cán bộ, đảng viên tốt, gương mẫu và xử trí những cán bộ, đảng viên có sai phạm...".

Chỉ thị cũng giao cho MTTQ và các đoàn thể nhân dân tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong hội viên, đoàn viên và nhân dân chỉ thị này và các quy chế dân chủ ở cơ sở... phối hợp với chính quyền trong việc thực hiện và giám sát thực hiện các quy chế dân chủ ở cơ sở.

Tới các quy định của Nhà nước

Sau khi có Chỉ thị 30-CT/TW, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa như Nghị định số 29/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (sau này được thay thế bởi Nghị định số 79/2003/NĐ-CP, ngày 07/7/2003); Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XI; Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam ban hành "Quy chế MTTQ Việt Nam giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư". Và gần đây nhất là Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở được ban hành năm 2022 trên cơ sở luật hóa các quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở ở các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật trước đó. Một trong những nguyên tắc xuyên suốt của toàn bộ luật này là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, vai trò nòng cốt của MTTQ Việt Nam và các tổ chức CT-XH trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Nội dung quan trọng nhất có liên quan đến giám sát của MTTQ đối với chính quyền cơ sở đó là những quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ. Hoạt động giám sát của hai thiết chế này được hướng dẫn, chỉ đạo của Ủy ban MTTQ Việt Nam. Nội dung giám sát tập trung vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức ở cấp xã, đặc biệt là giám sát cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên ở nơi cư trú và việc triển khai các chương trình, dự án ở cơ sở có tác động trực tiếp đến đơi sống của nhân dân.

Một đạo luật khác cũng liên quan trực tiếp đến hoạt động giám sát của MTTQ đối với chính quyền cơ sở đó là Luật Tổ chức chính quyền địa phương, với một số quy định như: Chính quyền địa phương tạo điều kiện để Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức CT-XH giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của chính quyền địa phương (Điều 15); Hội đồng nhân dân quyết định nội dung giám sát theo đề nghị củaỦy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp và ý kiến, kiến nghị của cử tri địa phương (Điều 87); Thường trực Hội đồng nhân dân trình Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm trong các trường hợp sau đây: Có kiến nghị của Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp (Điều 89); “….Thường trực Hội đồng nhân dân báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết các kiến nghị của cử tri ở địa phương đã được gửi đến Hội đồng nhân dân tại kỳ họp trước (Điều 90); Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân dân bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân hoặc theo đề nghị của Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp đưa ra để cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 102).

Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của MTTQ đối với chính quyền cơ sở còn được thực hiện theo các quy định của Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật Phòng, chống tham nhũng… Riêng ở cấp cơ sở, Luật Phòng, chống tham nhũng quy định trách nhiệm của công dân, Ban Thanh tra nhân dân (TTND), Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng (GSĐTCCĐ) giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC GIÁM SÁT CỦA MTTQ Ở CẤP CƠ SỞ

Bối cảnh chính trị - xã hội

Chúng ta đang sắp bước vào năm cuối cùng của nhiệm kỳ Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp và chuẩn bị cho một nhiệm kỳ mới. Các cấp bộ Đảng cũng đang chuẩn bị để tổng kết nhiệm kỳ hiện hành và chuẩn bị cho đại hội nhiệm kỳ mới. Với những kết quả đã đạt được trong hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam nơi chung, của MTTQ cấp xã nói riêng, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng vào những chủ trương của Đảng cũng như quan điểm của lãnh đạo Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam sẽ tiếp tục mở đường và tạo điều kiện để MTTQ cấp xã thực hiện tốt hơn hoạt động giám sát của mình.

Công cuộc đổi mới đã mang lại nhiều nguồn lực to lớn, tạo đà cho sự phát triển đất nước trong giai đoạn tới. Tuy nhiên, cùng với đó, tình trạng tham nhũng, tiêu cực của cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở các cấp chưa giảm. Gần đây lại xuất hiện một tình trạng mới chưa từng có, thậm chí đang có nguy cơ trở thành trào lưu đó là “sợ sai”. Do sợ sai nên không dám làm, mà không làm tất sẽ dẫn đến việc công sẽ bị ngưng trệ do lỗi chủ quan của cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu. Vì thế nội dung giám sát của MTTQ có lẽ cũng cần phải thay đổi cho phù hợp. Theo đó, ngoài việc giám sát những việc mà chính quyền đang làm thì còn phải giám sát cả những việc mà chính quyền không làm nếu như đó là những việc phải làm để góp phần làm lành mạnh một nền hành chính của nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã phân định khá rõ ràng chính quyền cấp xã bao gồm ở nông thôn (xã) và đô thị (phường, thị trấn). Bên cạnh đó, cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương còn có các quy định về chính quyền ở hải đảo, chính quyền ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Với mỗi loại hình, Luật đã quy định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp. Bên cạnh đó, hiện ở nhiều địa phương đang tiến hành chủ trương sáp nhập các đơn vị hành chính, trong đó có cấp xã. Đây là những điểm mới khác biệt với tổ chức MTTQ Việt Nam hiện vẫn thực hiện theo Điều lệ hiện hành. Vấn đề này đòi hỏi tới đây Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cần nghiên cứu sửa đổi Điều lệ MTTQ Việt Nam để cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của MTTQ cấp xã cho phù hợp.

Một số yếu tố tác động đến hoạt động giám sát

Trước hết, về kinh tế

Mặc dù còn rất nhiều khó khăn do tác động của đại dịch Covid-19 và các cuộc chiến tranh cục bộ trên thế giới nhưng theo nhiều dự báo lạc quan thì nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục có những bước phát triển, đời sống của nhân dân tiếp tục được nâng lên. Tuy nhiên, yêu cầu về phát huy dân chủ cũng theo đó tiếp tục được đề cao. Chính quyền cấp xã, tuy không phải là cấp quản lý về kinh tế nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong việc tạo những điều kiện cần thiết để người dân phát triển sản xuất, kinh doanh và cũng là nơi đón nhận những chương trình, dự án về dân sinh, dân trí triển khai trên địa bàn. Mặc dù tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã ngày càng hoàn thiện, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cấp xã ngày càng được nâng lên nhưng có thể nói tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực vẫn được dự báo là còn tiếp tục ở nhiều nơi, đặc biệt là những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân. Đây là những yếu tố tác động trực tiếp đến hoạt động giám sát của MTTQ ở cơ sở.

Thứ hai, về chính trị - pháp lý

Có thể nói, chưa bao giờ Đảng ta có một hệ thống các quan điểm về giám sát xã hội nói chung, giám sát của MTTQ Việt Nam nhiều như hiện nay. Nó không chỉ thể hiện trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc mà còn được thể hiện bằng nghị quyết, quyết định, chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam.

Mỗi chuyên đề giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều có sự tham gia của đại diện lãnh đạo Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Ảnh: Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến phát biểu tại phiên họp phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về Báo cáo kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14)

Mỗi chuyên đề giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều có sự tham gia của đại diện lãnh đạo Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Ảnh: Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến phát biểu tại phiên họp phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về Báo cáo kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14)

Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên cạnh sự kiểm soát trong nội bộ các cơ quan nhà nước, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước với nhau trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì còn đòi hỏi phải có kiểm soát quyền lực bên ngoài nhà nước để góp phần hạn chế sự tha hóa, lạm quyền. Chủ thể thực hiện vai trò kiểm soát quyền lực từ bên ngoài nhà nước không tổ chức nào tốt hơn MTTQ Việt Nam. Mặc dù các văn kiện của Đảng không nói rõ về vấn đề này nhưng bằng việc ban hành những văn bản cụ thể như Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam, các tổ chức CT-XH; Quy định về việc về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể CT-XH và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 02/02/2018 của Ban Bí thư về giám sát của MTTQ Việt Nam, các tổ chức CT-XH và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên; Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 26/10/2022 của Ban Bí thư về phát huy vai trò, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức CT-XH đã thể hiện sâu sắc tinh thần đó.

Tuy nhiên, thực tế, vẫn còn một số hạn chế của MTTQ Việt Nam cả về tổ chức, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn cùng với những nguyên nhân chủ quan, khách quan của tồn tại, hạn chế đó. Các cơ quan có thẩm quyền và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cũng đang có nhiều chủ trương, biện pháp để tháo gỡ những khó khăn cho hoạt động giám sát của MTTQ .

Về pháp luật của nhà nước, có thể thấy rằng, từ sau khi Hiến pháp năm 2013 và Luật MTTQ Việt Nam năm 2015 có hiệu lực, nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật có quy định về giám sát của MTTQ Việt Nam, trong đó có giám sát của MTTQ cấp cơ sở. Một điểm chung nhất là các văn bản ngày càng cụ thể hơn về cơ chế giám sát của MTTQ Việt Nam (Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam quy định chi tiết về các hình thức giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam là một ví dụ điển hình).

Riêng với cấp cơ sở, việc Quốc hội ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở có thể coi là đỉnh cao về cơ sở pháp lý để MTTQ và nhân dân giám sát hoạt động của chính quyền và cán bộ, công chức, viên chức cấp cơ sở. Các văn bản quy phạm pháp luật trước đây về dân chủ ở cơ sở và giám sát của MTTQ Việt Nam ở cấp cơ sở như Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; các nghị định của Chính phủ về Ban TTND chỉ là những văn bản dưới luật với nhiều nội dung đã không còn phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở và nghị định hướng dẫn chi tiết của Chính phủ được kỳ vọng sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam đối với chính quyền cơ sở trong thời gian tới.

Thứ ba, sự ủng hộ, kỳ vọng của nhân dân

Sau nhiều năm tiến hành các hoạt động giám sát của MTTQ ở tất cả các cấp với nhiều kết quả đáng mừng thì có thể nói chưa bao giờ hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam nhận được sự kỳ vọng của nhân dân như ngày nay. Ở nhiều nơi, người dân nhiệt tình hưởng ứng và tham gia hoạt động giám sát của MTTQ, nhất là những hoạt động giám sát liên quan đến chế độ, chính sách, đến việc triển khai các chương, trình dự án có tác động đến đời sống của nhân dân. Những kết quả tích cực trong hoạt động giám sát của Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã, của các Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ ở một số địa phương thời gian qua đều có sự tham gia nhiệt tình và trách nhiệm của nhân dân.

Tuy nhiên, sự ủng hộ, kỳ vọng của nhân dân bên cạnh yếu tố thuận lợi là cơ bản thì cũng là áp lực lớn đối với MTTQ cấp cơ sở. Điều này đòi hỏi MTTQ phải làm tốt hơn công tác giám sát từ khâu lựa chọn nội dung đến khâu tiến hành giám sát và kiến nghị sau giám sát để hoạt động giám sát thực sự mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân.

Thứ tư, về tổ chức và hoạt động của MTTQ Việt Nam

Mặc dù sự chuyển biến về bộ máy tổ chức của hệ thống MTTQ Việt Nam để đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới còn chưa rõ nét, tuy nhiên, thời gian gần đây mối quan hệ giữa Ủy ban MTTQ Việt Nam với các tổ chức thành viên nhất là các tổ chức CT-XH ở các cấp có chiều hướng ngày càng gắn bó hơn. Nhiều hoạt động của MTTQ Việt Nam đã có sự phối hợp giữa Ủy ban MTTQ Việt Nam với các tổ chức thành viên, nhất là hoạt động giám sát. Việc Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam nhiều nơi thường xuyên quan tâm đến hoạt động giám sát, coi giám sát là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cũng là dấu hiệu cho thấy hoạt động giám sát của MTTQ sẽ tiếp tục được coi trọng và đề cao trong thời gian tới.

Thứ năm, về mối quan hệ giữa MTTQ với chính quyền cấp xã

Quan hệ giữa MTTQ với chính quyền cấp xã là mối quan hệ khá đặc biệt. Trong công việc hàng ngày, với tư cách là các thành viên trong hệ thống chính trị thì MTTQ và chính quyền là đối tác, nhưng trong giám sát của MTTQ thì chính quyền lại là đối tượng. Ở chiều ngược lại, HĐND cấp xã có quyền giám sát Ủy ban MTTQ cấp xã, bình đẳng như các cơ quan, tổ chức khác trên địa bàn…

Việc xác định mối quan hệ giữa hai bên khi nào là đối tác, khi nào là đối tượng phải được thể hiện từ trong nhận thức của mỗi bên. Về phía MTTQ , cần xác định MTTQ là tổ chức đại diện cho nhân dân, có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân để từ đó chủ động hơn, bản lĩnh hơn trong giám sát chính quyền. Tuy nhiên, với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân thì MTTQ cần có trách nhiệm tham gia xây dựng nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh. Về phía chính quyền, cần xác định hoạt động giám sát, phản biện xã hội của MTTQ đối với chính quyền là thực tế khách quan, là chủ trương của Đảng, là yêu cầu tự thân của chính quyền, gop phần giúp cho chính quyền khắc phục những tồn tại, hạn chế, từ đó thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ở đâu chính quyền và MTTQ xác định được cân bằng hai yếu tố trên, ở đó chắc chắn sẽ phát huy tốt vai trò của MTTQ trong giám sát và tham gia xây dựng chính quyền.

TS. Nguyễn Văn Pha - ThS. Đỗ Thị Vân An

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Phản hồi

Các tin khác

Về tư duy lý luận của đồng chí Đào Duy Tùng trong hoạt động thông tin - báo chí, văn hóa - văn nghệ

(TG) - Sinh thời, đồng chí Đào Duy Tùng, Thường trực Bộ Chính trị - Ban Bí thư đã dành nhiều công sức cho công tác lý luận, tư tưởng của Đảng. Trong lĩnh vực công tác này, đồng chí đã có những cống hiến to lớn trên nhiều mặt, từ hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn góp phần hình thành các quyết định quan trọng của Đảng đến tuyên truyền, phổ biến các chỉ thị, nghị quyết, văn kiện của Đảng; từ công tác giáo dục lý luận chính trị đến công tác báo chí của Đảng. Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Đào Duy Tùng (20/5/1924 - 20/5/2024), PGS.TS. NGUYỄN HỒNG VINH, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Tổng Biên tập Báo Nhân Dân đã có bài viết phân tích sâu sắc, khắc họa rõ nét những đóng góp quan trọng và quý báu của đồng chí Đào Duy Tùng từ góc độ tư duy lý luận trong hoạt động thông tin - báo chí, văn hóa - văn nghệ. Theo đó, những luận điểm của đồng chí Đào Duy Tùng về nội dung và phương thức hoạt động trong các lĩnh vực thông tin - báo chí, văn hóa - văn nghệ vẫn còn nguyên giá trị thời sự trong giai đoạn hiện nay. Tạp chí Tuyên giáo trân trọng giới thiệu bài viết “Về tư duy lý luận của đồng chí Đào Duy Tùng trong hoạt động thông tin - báo chí, văn hóa - văn nghệ” của PGS.TS. Nguyễn Hồng Vinh.

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất