Cùng với sự phát triển của tiến trình dân chủ hóa xã hội, trong
các ngành khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta hiện nay, việc nhiều
vấn đề đã hình thành hoặc đang tồn tại như một hình dung tương đối ổn
định được tái thảo luận đã trở nên tương đối phổ biến. Tuy nhiên, đằng
sau công việc tưởng như hết sức bình thường đó lại đang xuất hiện không
ít dấu hiệu của những xu hướng rất bất bình thường. Có thể coi bài
Trung Hoa có nhiều điều khác người Việt đăng trên ấn phẩm Tia sáng của
Bộ Khoa học và Công nghệ cuối năm 2013 vừa qua, sau đó được một số báo
điện tử khác đăng lại, là một thí dụ.
Thoạt đọc, thì đây là một bài viết hết sức bình thường, khi đặt người
Việt Nam bên cạnh người Trung Quốc để tiến hành một so sánh dường như
là về căn cước văn hóa của người Việt và người Hoa. Bài viết được bắt
đầu bằng một nhận định dễ có thể nhận được sự đồng cảm, song lại thật
sự đáng ngờ: "Nếu bạn gặp một ai lần đầu ở xứ lạ, mà người đó bảo bạn
rằng bạn là người Việt, không phải là người Hoa, thế mà thật sự đúng là
như vậy, thì người đó quá là tài!". Chúng ta không thể phủ nhận một
thực tế là với sự phát triển của kinh tế Đông Á vào cuối thế kỷ 20, đầu
thế kỷ 21, người Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản đã có mặt ở khắp mọi
nơi trên thế giới, cả với tư cách khách du lịch lẫn nhà đầu tư, hay
chuyên gia kỹ thuật, chính vì vậy việc nhầm lẫn giữa người Việt Nam với
người ở các quốc gia này là điều hoàn toàn dễ hiểu. Điều không bình
thường là người viết lại dựa vào một thực tế mang tính kinh tế - xã hội
- văn hóa làm điểm tựa cho hệ thống luận điểm, có thể nói là rất đáng
quan ngại, của bài viết.
Nhằm xây dựng lô-gic triển khai bài báo, người viết mở đầu bằng một
loạt sự tương đồng giữa người Việt Nam và người Trung Quốc, những tương
đồng không thể phủ nhận khi văn hóa Việt Nam từng có lịch sử chịu ảnh
hưởng văn hóa Trung Quốc giống như những dân tộc Đông Á khác, để triển
khai cái ý về sự giống nhau giữa "người Việt và người Hoa, cả về thể
chất lẫn tinh thần". Tuy vậy, luận điểm về sự tương đồng đó chỉ là phần
nhỏ, phần lớn của bài báo lại là phần người viết chứng minh những điểm
người Việt khác người Hoa. Đó là việc cho rằng, người Việt không có
tinh thần "nhắm tới tự quyết tinh thần" (nói thẳng ra là chê trách
người Việt chỉ biết du nhập, làm nô lệ cho những học thuyết ngoại nhập),
"tinh thần thực dụng" (nghĩa là chê trách người Việt viển vông, giáo
điều), "bao dung vì lợi" (người Việt ham nghĩ đến lợi nhỏ, không nghĩ
đến các lợi ích lớn), "chép sử kỹ càng" (nghĩa là người Việt không có
nền sử học có giá trị, chỉ biết sùng bái mù quáng các vĩ nhân)...(!)
Chưa nói việc các luận điểm trên được chống đỡ bằng những lập luận
hết sức đáng ngờ, như khen ngợi người Hoa "không mang tên vĩ nhân của
họ ra đặt cho các địa danh lớn, họ hiểu rằng điều đó không được an bền,
và không lấy được lòng người trong dài lâu" trong khi điều này đã thành
thông lệ của nhiều quốc gia trên thế giới. Dùng một loạt dấu hiệu mang
tính kinh nghiệm để chứng minh sự tương đồng văn hóa giữa người Việt
và người Hoa, sau đó tác giả lựa lọc một số điểm "lớn" trong bản sắc
văn hóa của người Hoa (nhiều điểm rất đáng ngờ như các "thành tựu"
trong công cuộc viễn chinh xâm lược chẳng hạn), những yếu tố mang tính
đặc thù của dân tộc Trung Hoa hình thành nhờ các đặc điểm riêng của dân
tộc này rồi chứng minh rằng người Việt không thể có được những điểm
"vĩ đại" đó. Lô-gic đó, không có gì khác, chỉ có thể dẫn đến kết luận
rằng người Việt chỉ là một phiên bản "bằng máy xấu, giấy xấu" của người
Hoa. Người viết dường như quên mất một điều rằng, mỗi dân tộc là một
thực thể có tính đặc thù, duy nhất, mà các điểm tích cực hay tiêu cực
là sản phẩm riêng được tạo nên bởi hoàn cảnh riêng. Mỗi dân tộc đều có
các điểm tích cực và tiêu cực riêng nên nếu như ở dân tộc A có những
yếu tố tích cực mà dân tộc B không có, thì cũng lại có một thực tế là
dân tộc B có những yếu tố tích cực riêng mà khó có thể hiện diện trong
bản sắc của dân tộc A. Chính vì vậy, việc nhận thức bản sắc dân tộc chỉ
có nghĩa khi phân tích trong lô-gic nội tại của chính dân tộc đó. Những
so sánh hơn kém chỉ có thể dẫn đến cái nhìn mang tính kỳ thị. Điều
đáng ngạc nhiên là thứ lô-gic có tính kỳ thị và phản khoa học đó lại
xuất hiện ở một tờ báo của một Bộ chuyên về khoa học. Nên không ngẫu
nhiên, trong bốn comment dưới bài viết này sau khi đăng trên Tia
sáng,thì có tới ba ý kiến cho rằng: "Tôi thật sự không hài lòng về rất
nhiều điểm được tác giả đề cập trong bài báo này. Nếu những người thiếu
bản lĩnh khi đọc nó tự nhiên họ hình thành suy nghĩ rằng dân tộc Việt
Nam là thấp hèn còn Trung Quốc là đế vương. Tôi không cho rằng điều đó
là đúng. Có nhiều nước lớn nhưng cũng có nhiều nước nhỏ, mỗi quốc gia
đều có quyền tự hào về dân tộc mình, đất nước mình. Đây là điều quan
trọng để giữ chủ quyền và độc lập dân tộc".
Đằng sau câu chuyện so sánh này, dường như còn cho thấy một xu hướng
khi thì "thấp thoáng", khi thì lại "rõ nét", trong đời sống học thuật
của chúng ta hiện nay? Nhân danh tìm kiếm chân lý, một số nhà khoa học
đang có xu hướng lật lại các vấn đề lịch sử với tinh thần phê phán.
Điển hình nhất là việc một số nhà khoa học ở trong cũng như ngoài nước
đang nhân danh lý thuyết về "cộng đồng tưởng tượng" của Benedict
Anderson để "phân tích" lại một loạt các yếu tố văn hóa dân tộc, từ các
huyền thoại về Quốc tổ đến những yếu tố huyền tích về các nhân vật
lịch sử. Theo sự hình dung có phần cực đoan của lý thuyết này, các căn
tính (identity) của một dân tộc không phải là một thực thể tồn tại một
cách hoàn toàn khách quan, tự nhiên mà là những "tạo tác văn hóa có
tính nhân tạo". Nói đơn giản, theo lý thuyết "cộng đồng tưởng tượng",
căn tính dân tộc không phải là một yếu tố được hình thành một cách khách
quan, lịch sử, không phải là kết quả của sự tồn tại của một cộng đồng
người trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, mà là các yếu tố được "bịa"
ra, được tưởng tượng nên, dưới sự chi phối của quyền lực. Lô-gic đó
cũng giống như việc coi tính cách của một con người không phải là sản
phẩm tự nhiên, kết quả mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh cộng
đồng nó là thành viên, mà là một cái gì đó mà người ta dựng lên, bịa
ra, đến một lúc con người đó tin rằng đó là tính cách của mình. Và một
trong những sản phẩm của sự bịa đặt đó chính là những huyền thoại,
những huyền tích trong lịch sử được kiến tạo nên để làm công cụ cho việc
liên kết dân tộc!
Theo xu hướng ấy, gần đây một số huyền thoại, huyền tích về sự lập
quốc của người Việt Nam, ý thức về nền độc lập, thậm chí cả tinh thần
yêu nước, đã được một số tác giả ở trong và ngoài nước xem xét mổ xẻ,
rồi chỉ ra rằng đó chỉ là những tạo tác được xây dựng dựa trên chất
liệu lấy từ lịch sử, văn hóa Trung Quốc. Tạm chưa bàn đến tính chất cực
đoan trong việc khi tuyệt đối hóa quan hệ giao lưu văn hóa với Trung
Quốc, thì lô-gic của các thứ lập luận này đã ẩn chứa một tinh thần kỳ
thị chủng tộc, một thứ chủ nghĩa thực dân văn hóa kiểu mới. Những người
chủ trương thứ lý thuyết này dường như không quan tâm (hay cố tình
không quan tâm) tới sự phân biệt giữa tính quốc gia và tính nhân loại.
Có những giá trị mà khi đạt tới mức độ nào đó đã trở thành một di sản
mang tính nhân loại, mà Kitô giáo là một thí dụ. Vì khó có thể coi việc
nhiều quốc gia trên thế giới tiếp nhận Kitô giáo là đã bị cuốn vào
vòng ảnh hưởng Do thái. Việc người Việt Nam tiếp nhận các tư tưởng, các
yếu tố văn hóa, tôn giáo từ Trung Quốc với tư cách các giá trị mang
tính toàn nhân loại không có nghĩa người Việt Nam không có ý thức về sự
phân biệt giữa người phương nam và người phương bắc, không có ý thức
về sự phân biệt giữa các triều đại phương bắc với các triều đại phương
nam. Rõ ràng, từ góc nhìn khoa học, phía sau lập luận đó là một thứ tinh
thần kỳ thị sắc tộc, một thứ chủ nghĩa thực dân kiểu mới về văn hóa
với sự hình dung về "dân tộc thượng đẳng" và "dân tộc hạ đẳng".
Những vận động trong đời sống học thuật của xã hội hiện nay đang ngày
càng cho thấy các biến chuyển theo hướng dân chủ hóa đời sống học
thuật của chúng ta. Vấn đề là khi các lý thuyết, quan niệm từ nước
ngoài được tiếp thu một cách sống sượng, thiếu tinh thần khách quan
khoa học, vận dụng để phê phán một cách thiếu thiện chí, thì đằng sau
một số biểu hiện tưởng như bình thường, rất có thể ẩn giấu những khuynh
hướng tai hại, mà biểu hiện cao nhất của nó là bôi nhọ, hạ thấp truyền
thống văn hóa, phổ biến tâm lý và thái độ nhược tiểu văn hóa, rồi có
thể từng bước tiến tới phủ nhận các giá trị đương đại.