Hàng
trăm năm nay nông dân giữ nghề rối như níu lấy tiếng cười của cuộc đời.
Từ đôi tay cầm đục, cầm chàng, phủ sơn, đưa sào, kéo dây… tâm hồn họ
dần hiện qua gương mặt con rối, để cùng nhịp trống, làn sáo và tiếng ca
cho cảm xúc thăng hoa trên sân khấu.
Rối cạn tâm tình
Tiếng
trống, mõ, đàn nhị vang lên, quyện vào bầu không khí hứng khởi và hồi
hộp. Từng con rối xuất hiện uyển chuyển, nhẹ nhàng như bay dưới ánh đèn:
Rồng uốn lượn oai phong, Lân hùng dũng ngạo nghễ, Rùa chậm rãi hiền
lành; Phượng Hoàng thanh thoát, khoan thai… kéo theo tràng pháo tay giòn
giã của khán giả. Sau bức mành, thấp thoáng bóng nghệ nhân chăm chú bắt
từng động tác, đôi mắt lần theo chuyển động nơi bàn tay đang ẩn trong
lớp vải. Tiết mục chưa đầy 10 phút mà các con rối như gói hết câu chuyện
của đất trời, kể cho muôn đời. Nghệ nhân Nguyễn Văn Tươm, làng rối Bảo
Hà, Vĩnh Bảo, Hải Phòng cho biết: “Ấy là tích cổ Tứ linh - Long, Ly,
Quy, Phụng nổi tiếng của làng rối cạn Bảo Hà, kể về 4 con vật linh
thiêng của tạo hóa âm dương. Sự xuất hiện của tứ linh là biểu tượng cho
ước mơ quây quần, khát vọng hùng mạnh, hòa bình, trường thọ và vươn xa
của con người”.
Cùng sử dụng các tích
trò dân gian, nhưng thông qua con rối, người xem bỗng thấy sinh động,
cuốn hút lạ kỳ. Tính ra cũng nửa thiên niên kỷ, rối đã là người bạn đồng
hành, chia sẻ ngọt bùi với con người. Người nông dân giữ nghề rối như
níu lấy tiếng cười của cuộc đời. Họ đem cái vất vả đồng áng gửi vào
tiếng hát, đem chuyện buồn vui cuộc sống mà giải bày, dần phác họa nên
diện mạo văn hóa tinh thần ở nông thôn. Bảo Hà là một trong 3 phường rối
cạn cổ truyền Việt Nam. Đi từ nghề tạc tượng, các nghệ nhân đã sáng
tạo, phát triển thành nghệ thuật rối. Độc đáo ở chỗ, cùng tạo mặt con
rối nối với bán thân là que trụ, nhưng các nghệ nhân Bảo Hà chỉ từ một
que gỗ - gọi là “tay trong” - có thể điều khiển con rối chuyển động.
Thần
thái rối Bảo Hà cũng có nét riêng, phân thiện - ác rõ ràng. Chẳng hạn,
tạo hình thần linh thì mắt sáng, râu dài, trán dô, miệng khẽ nhếch như
đang cười; còn hình quỷ thì đầu bù tóc rối, môi thâm, mắt quắc vân đỏ vẻ
dữ dằn, ghê gớm… Ngay màu sắc, kiểu dáng trang phục cũng phải tuân theo
chuẩn nhất định chứ không thích gì chọn nấy. “Làm rối phải tỉ mỉ, nhập
hồn vào nhân vật mà chạm khắc, đục đẽo, tô điểm cho chính xác, công phu.
Để rối vừa xuất hiện đã thấy được tính thẩm mỹ tinh tế của nghệ nhân,
rối vừa di chuyển người xem đã nhập tâm vào câu chuyện”, nghệ nhân
Nguyễn Văn Tươm nói.
Cả đời say với rối
Theo nghệ sĩ Lê Giang, Giám đốc
Trung tâm Nghệ thuật Six Space, cùng là nghệ thuật múa rối nhưng khi
rối nước đang được quảng bá rộng rãi thì rối cạn hầu như sống rất khó
khăn. Nghệ thuật múa rối cạn ở làng Bảo Hà dù chứa nhiều nét độc đáo
trong tạo hình và cách trình diễn nhưng chưa được mọi người biết đến.
Qua chương trình này, chúng tôi hy vọng khán giả hiểu thêm một loại hình
nghệ thuật múa rối, biết được đôi bàn tay tài hoa, khéo léo của các
nghệ nhân Bảo Hà, qua đó trân trọng nét đẹp văn hóa Việt Nam.
|
Buổi biểu diễn
“Rối cạn kể chuyện” của các nghệ nhân làng rối Bảo Hà tại không gian
nghệ thuật Six Space, Hà Nội mới đây thu hút đông đảo khán giả. Nhiều
người lần đầu tiên chứng kiến nghệ thuật múa rối cạn, đi từ ngạc nhiên
đến thán phục trò giải trí tinh tế sinh ra từ làng quê mà giờ đây không
còn phổ biến. Rối không thể cạnh tranh với các loại hình nghệ thuật nở
rộ khác. Vậy nên với nghệ nhân, diễn rối trước là cho mình, để vui với
nhau, với làng xóm, sau là với những ai đến với mình và những ai mong
mình đến. Theo nghệ nhân Nguyễn Văn Hon: “Xưa kia suốt 3 tháng đầu năm
mùa lễ hội, tiếng trống chèo rộn rã khắp làng là lúc phường rối tất bật.
Nay không còn nữa, ngoài một số buổi giao lưu văn nghệ hay tháng cũng
có đôi ba đoàn khách Tây về Bảo Hà xem diễn. Thế đã là quý rồi. Làm nghề
có cái tâm yêu thích, ham mê, thôi thì nghèo về đồng tiền bát gạo nhưng
giàu về tâm hồn cũng thích”.
Cũng
vì cái “giàu” ấy mà nghệ nhân 79 tuổi này trở thành tay đàn kỳ cựu của
làng. Mấy chục năm gắn bó, ông bảo: “Thứ nghệ thuật này một khi đã theo
thì say lắm. Mà có vậy mới để cho khán giả nghe như thấy được tiếng lòng
của rối, xem thấy được cái tình của nghệ nhân”. Biết bao nghệ nhân làng
Bảo Hà đã dành cả cuộc đời để say với rối. Nhiều người tuổi cao tóc
bạc, lúc cầm quân rối trên tay, nâng niu, chau chuốt bỗng thấy mọi nhọc
nhằn tan biến, chỉ còn nụ cười hóm hỉnh, đôi mắt ánh lên trong trẻo, ân
tình.
Nhắn trình chàng khoan khoan se sẽ/ Để thiếp tôi phân nỗi sự tình… (trích vở rối Đôi ngọc lưu ly).
Hòa vào tiếng đàn dìu dặt khoan thai, nghệ nhân Phạm Minh Nhuận say sưa
ngâm câu chèo cổ. Trong một khoảnh khắc, người và rối như đã chuyển qua
nhau. Tại sao dù đứng sau sân khấu, các nghệ nhân vẫn vận trang phục tứ
thân, áo the, khăn xếp? Cô cười: “Các cụ xưa dù có nghèo khó đến đâu
khi biểu diễn cũng phải mang cái áo, cái khăn tử tế. Chúng tôi là lớp
nghệ nhân đang thực hành di sản của cha ông truyền lại, phần phải noi
theo, phần thể hiện tình cảm nâng niu, trân trọng nghiệp rối”.
Lê Thư (daibieunhandan.vn)