Như vậy, trong cuộc cách mạng nói chung hay làm bất cứ việc gì mang
tính vĩ mô, chiến lược đều cần đến lý luận. Bác Hồ nói “Văn hóa soi
đường cho quốc dân đi” là rất khoa học, chuẩn xác, tinh tế. Vậy cái gì
soi đường cho văn hóa? Chắc chắn, đó là lý luận văn hóa.
LÝ LUẬN NHƯNG THIẾU CHẤT... LÝ GIẢI KHOA HỌC
Văn hóa là lĩnh vực rất rộng có mặt và chi phối mọi lĩnh vực đời sống
(văn hóa công vụ, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa học đường, văn hóa giao
thông...). Thời đại cách mạng 4.0 là
thời của số hóa, mọi sự vật, hiện tượng đều có thể biến chuyển một cách
mau lẹ, bất ngờ. Những điều ấy đều có thể góp phần làm thay đổi, thậm
chí đảo ngược giá trị. Sinh thời, Bác Hồ từng nhắc nhở: “Một dân tộc,
một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa...”(1).
Ở ngày hôm nay cũng thấy có hiện tượng một cá nhân đang là hình mẫu,
đang dần trở thành biểu tượng nhưng đột nhiên bị phanh phui, hạ bệ để
trơ ra bộ mặt thật xấu xí... Những điều ấy rất cần được khái quát để
nâng thành lý luận soi sáng cho quá trình phát triển. Ở nhiều nước, giáo
trình lý luận văn hóa dùng trong các trường đại học, cao đẳng thường 10
năm phải viết lại, thay đổi để thích ứng, phù hợp với thực tiễn diễn
ra. Ở nước ta, ngành văn hóa học còn non trẻ, bộ môn lý luận văn hóa còn
nhiều ngỡ ngàng, do vậy sự cấp thiết cần có những công trình tương xứng
với văn hóa.
Có thể nhận định về một số vấn đề lý luận văn hóa ở nước ta trên một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, vì chưa có bề dày truyền thống nên chúng ta chưa có các
chuyên gia đầu ngành. Các tác giả có công trình đáng chú ý thường là từ
các chuyên ngành khác: Đinh Gia Khánh (văn học), Phan Ngọc (ngôn ngữ),
Trần Quốc Vượng (sử học), Trần Ngọc Thêm (ngôn ngữ)... Nhưng không vì
thế mà công trình của họ thiếu thuyết phục, ngược lại, lấy điểm tựa chắc
chắn là chuyên ngành sở trường, mỗi người đều có những kiến giải riêng,
khá sắc sảo. Nhưng có tác phẩm vẫn thiếu tính hệ thống, có khi phiến
diện bởi thiếu các cách tiếp cận, phương pháp chuyên ngành đặc thù về
văn hóa.
Thứ hai, giáo trình lý luận văn hóa ở các trường, viện chưa thể nói
là chuyên sâu, hệ thống, hoàn chỉnh. Các giảng viên cũng thường là “tay
ngang”, từ văn học, ngôn ngữ sang giảng dạy lý luận văn hóa. Nhiều bộ
giáo trình về lý luận nhưng thiếu chất lý luận, có khi còn “giẫm” vào
bước chân của môn Cơ sở văn hóa Việt Nam. Thường được chia làm 3
chương: Chương đầu mang tính “nhập môn” giới thiệu hệ thống khái niệm,
phương pháp nghiên cứu; chương hai trình bày các lĩnh vực/thành tố cơ
bản của văn hóa; chương ba nêu các giải pháp để “Xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”...
Ngay cấu trúc này cũng cho thấy giáo trình thiên về lịch sử hơn là lý
luận. Cũng đã có nhiều công trình, đề tài cấp nhà nước được nghiệm thu
nhưng còn ít tiếng vang, chưa gây ảnh hưởng trong đời sống học thuật bởi
hoặc sa vào chung chung hoặc ít có sự liên hệ với đời sống thành ra
chưa thể “soi sáng” cho thực tiễn.
Thứ ba, do đặc thù của văn hóa Việt Nam là “tam giáo đồng nguyên”
dùng chữ Hán, sau là chữ Nôm. Chữ Quốc ngữ cũng phổ biến trên dưới trăm
năm. Trong khi đó, ngôn ngữ là chìa khóa cơ bản để mở ra các mã văn hóa.
Có hiểu ký hiệu cơ bản của văn hóa là ngôn ngữ mới hiểu ngọn ngành, gốc
rễ văn hóa. Ví như một câu đối Nôm hóm hỉnh của cụ Nguyễn Công
Trứ: “Chiều ba mươi, nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa/ Sáng
mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà”. Câu đối tái
hiện phong tục mọi thứ nợ nần đều trả trong năm cũ, mọi tai bay vạ gió,
nghèo nàn, khó khăn đều gửi vào hôm qua (đạp thằng Bần ra cửa) để ngày
đầu năm mới trong trẻo, tinh khôi.
Hình tượng chủ nhà “rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc” chính là
một “phiên bản” của “mẫu gốc” nguyên thủy: Chữ “Phúc” trong “giáp cốt
văn” (chữ khắc trên xương thú, mai rùa) là tượng hình của hai bàn tay
bưng hũ rượu đứng lễ trước bàn thờ. Được chưng cất từ lúa gạo lương thực
nuôi sống người trộn cùng thứ men lá đặc biệt nên rượu được coi là linh
hồn của trời đất, vũ trụ. Con người lấy thứ linh hồn ấy để cầu phúc
chẳng phải là một điều thiêng liêng sao? Điều này cũng lý giải phổ nghĩa
của chữ “Phúc” rất rộng, không chỉ là những gì tốt đẹp, may mắn, tốt
lành, mà còn là thuận lợi, hanh thông...
Về sau chữ “Phúc” được tỉnh lược, bổ sung hoàn thiện để còn lại hình
chữ như ngày nay. Chiết tự chữ “Phúc” cũng cho thấy nhiều thú vị về quan
niệm hạnh phúc của người xưa: Bên trái là bộ “thị” có nghĩa là mong
muốn (thị hiếu); bên phải là bộ “miên” nghĩa là mái nhà và
bộ “khẩu” nghĩa là miệng ăn (hộ khẩu); dưới là bộ “điền” nghĩa là ruộng
đất. Như vậy khát vọng, ước mơ giản dị của con người về một cuộc sống
bình yên là có một mái nhà để trú (nơi ở), có mảnh ruộng để cày cấy
(nghề nghiệp).
Đó là hạnh phúc! Những tài năng như cụ Nguyễn Công Trứ luôn có mối
liên hệ (dù mờ nhạt) với nguồn cội để tạo nên tính hệ thống nhất quán
trong kiến văn! Nói thế để thấy, đào tạo một cán bộ nghiên cứu, giảng
dạy Lý luận văn hóa thật công phu, ít người muốn theo (dù rất hay), phải
học nhiều (Nho, Phật, Lão, chữ Hán Nôm). Những tấm gương như GS. Hà Văn
Tấn rất hiếm, để hiểu phật giáo Việt Nam ông phải học cả chữ Phạn cổ!
Thứ tư, chúng ta chậm nhịp so với thế giới. Ví dụ bước vào thời 4.0
hướng nghiên cứu liên văn hóa (intercultural) được mở rộng, khái quát
thành trào lưu triết học liên văn hóa (the
intercultural philosophy) hướng đến những điểm tương đồng trên nền tảng
những khác biệt văn hóa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đây là một xu
hướng tất yếu, không chỉ là nhận thức đời sống từ cái nhìn dân tộc, mà
đa chiều hơn, hướng đến những giá trị phổ quát, nhân loại, hay được gọi
là mẫu số chung của văn hóa toàn cầu.
Nhiều nước ra đời môn học Phân tích giao tiếp liên văn hóa
(intercultural communication analysis, gọi tắt là ICA) có ở nhiều môn
học khoa học xã hội, rất chú trọng tới hiệu quả giao tiếp thể hiện thành
các giá trị văn hóa, như một “phần mềm tinh thần” (mental software) là
những tiêu chuẩn, những điều mong muốn tác động đến sự lựa chọn văn hóa.
Liên văn hóa có trong một nền văn hóa (quan hệ chiều dọc truyền
thống/hiện đại), còn gọi là giao tiếp nội văn hóa (intracultural
communication).
Theo nghĩa rộng là sự mở ra giao tiếp với các nền văn hóa khác. Hướng
nghiên cứu này cho phép xem xét các hiện tượng liên văn hóa với các
chiều kích ở mọi bề sâu bề xa... tức rất có ý nghĩa, mang tính phổ quát
cao, phù hợp với mọi nền văn hóa, thế nhưng ở ta mới được giới thiệu,
chỉ có vài công trình, đề cập, ứng dụng.
CẦN LÀM GÌ ĐỂ CÓ NHỮNG CÔNG TRÌNH LÝ LUẬN VĂN HÓA ĐỦ SỨC "SOI ĐƯỜNG"?
Trước hết, xin thống nhất một vài vấn đề phương pháp luận. Điều mang
tính quyết định là sự quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ lý luận
và thực tiễn: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc
căn bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn
thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là
lý luận suông...
Lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành
động cách mạng; và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy
tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết
luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”(2). Chỉ có thể
tuân theo một cách triệt để lời dạy này thì các công trình lý luận văn
hóa mới làm được vai trò “soi sáng” thực tiễn.
Một công trình lý luận văn hóa phải có nhiệm vụ nghiên cứu bản chất,
chức năng xã hội và thẩm mỹ, quy luật phát triển của văn hóa. Phải xác
định được phương pháp luận và phương pháp phân tích văn hóa. Trên thế
giới, lý luận văn hóa thường gồm 3 nhóm vấn đề: Lý thuyết về các đặc
trưng; lý thuyết về cấu trúc của văn hóa; lý thuyết về tiến trình văn
hóa.
Lý luận luôn đi cùng hệ thống khái niệm. Các khái niệm này phải chặt
chẽ, logic nhưng giản dị, dễ hiểu vì sức sống của chúng được biểu hiện ở
cơ sở, vận dụng, triển khai ở cơ sở. Ví dụ chỉ một khái niệm “bảo tồn”
mà có nơi hiểu “giữ nguyên trạng” dù đang xuống cấp, có nơi vận dụng
“giữ nội dung sửa hình thức”, có nơi hiểu “đập đi làm lại theo mô hình
cũ”...
Bên cạnh đó, phải có một định nghĩa mang tính phổ quát, bao hàm
chung, soi sáng được nhiều phương diện, lĩnh vực. Đó là định nghĩa của
Hồ Chí Minh. Đây là vấn đề mang tính khoa học được thế giới khẳng
định: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(3).
Định nghĩa này khá đầy đủ, về đặc trưng của văn hóa là “những sáng
tạo và phát minh”; về nguồn gốc “vì lẽ sinh tồn của con người”; về cấu
trúc “ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, luật pháp, khoa học, tôn giáo...,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức
sử dụng”; về mục đích “nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi
hỏi”... Định nghĩa này gần gũi với định nghĩa của UNESCO về văn
hóa (2001).
Một công trình lý luận thuộc lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn đều
phải có tư tưởng, với công trình lý luận văn hóa càng phải thế. Do vậy,
cần quán triệt các quan điểm chỉ đạo: Một là, đúng với đường lối của
Đảng, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa là mục tiêu,
là động lực, là nhân tố điều tiết quá trình xây dựng và phát triển. Hai
là, hướng tới xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
do vậy tự thân nó phải có các đặc trưng dân tộc, khoa học, hiện đại, dân
chủ, nhân văn. Ba là, xây dựng nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa
là sự nghiệp cách mạng của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Để có những công trình lý luận văn hóa xứng đáng vơi vị thế, vai
trò "soi đường cho quốc dân đi", theo chúng tôi cần quan tâm chú trọng
trên hai phương diện cơ bản.
Về phía Nhà nước và các cơ quan chủ quản phải đầu tư nguồn lực tương xứng cho việc xây dựng các công trình lý luận văn hóa.
Do tính phức tạp nên công trình lý luận văn hóa thường phải do một
tập thể chuyên gia tiến hành, không chỉ một mà phải nhiều năm. Do vậy,
cần dành một khoản ngân sách đáng kể cho việc xây dựng các công trình lý
luận trọng điểm; đồng thời có thể kêu gọi đầu tư theo phương thức xã
hội hóa. Tăng cường gửi các nhà nghiên cứu đi đào tạo ở các nước có nền
văn hóa phát triển để họ tiếp thu các ánh sáng lý thuyết mới, tiếp cận
các hướng đi, phương pháp mới. Theo hướng này, ở thế kỷ trước Việt Nam
ta đã có các nhà nghiên cứu nổi tiếng tầm thế giới như Nguyễn Văn
Huyên, Trần Đức Thảo... Ngoài ra, cần tiến hành nhiều cuộc hội thảo khoa
học theo từng chủ đề để thu hút được nhiều tiếng nói, tạo ra các cuộc
tranh luận để nảy ra tư tưởng mới. Chỉ trên cơ sở gặp gỡ, trao đổi, cọ
xát, phản biện dân chủ mới có thể thống nhất được các vấn đề khoa học về
lý luận văn hóa.
Về phía các cán bộ nghiên cứu, giảng dạy.
Việc xây dựng các công trình lý luận văn hóa không ai khác ngoài các
nhà nghiên cứu, các cán bộ, giảng viên. Đó là sứ mệnh vẻ vang nhưng cũng
là nhiệm vụ nặng nề, phải trí tuệ, tâm huyết và thật sự kiên trì. Việc
tham khảo, học tập nước ngoài là đương nhiên nhưng cần nhớ lời Bác Hồ
căn dặn, là làm sao “phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể... cho
hợp với điều kiện đặc biệt của nước ta”(4); “lý luận là cốt để áp dụng vào thực tế” (5) nhất là trong lĩnh vực văn hóa lời dạy này càng quan trọng.
Thực tế hiện nay nước ta có nhiều nhà nghiên cứu, giảng viên giỏi
ngoại ngữ, nhưng với đặc thù văn hóa Việt thì ngoài nắm vững các triết
học Nho, Phật, Lão còn phải giỏi Hán Nôm. Đó là mã quan trọng bậc nhất
của văn hóa Việt, do vậy người nghiên cứu chỉ có thể làm chủ được nó mới
mở ra được những cánh cửa ý nghĩa mới cho các công trình nghiên cứu lý
luận văn hóa./.
TS. Cao Thị Sính - PGS. TS. Nguyễn Thanh Tú
________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.15, tr. 672.
(2), (4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.95, 96, 95.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 458.
(Nguồn: qdnd.vn)