Thứ Sáu, 22/11/2024

Ngoại giao Việt Nam với việc đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới

Chủ tịch nước Trần Đại Quang cùng Lãnh đạo các nền kinh tế APEC trong khuôn khổ Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 25

Chủ tịch nước Trần Đại Quang cùng Lãnh đạo các nền kinh tế APEC trong khuôn khổ Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 25

1. VAI TRÒ VÀ ĐÓNG GÓP CỦA NGÀNH NGOẠI GIAO TRONG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI

Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, vị thế của đất nước ngày càng nâng cao trên trường quốc tế. Đóng góp vào kết quả chung đó có vai trò nổi bật của ngành Ngoại giao. Luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nước qua từng giai đoạn lịch sử, quán triệt sâu sắc quan điểm đối ngoại của Đảng, thấm nhuần tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên định, kiên trì nguyên tắc đặt lợi ích đất nước lên trên hết, đồng thời linh hoạt, uyển chuyển trong giải quyết những vấn đề cụ thể, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa “đối tác, đối tượng”, ngành Ngoại giao luôn chủ động, đi đầu thúc đẩy quá trình hội nhập sâu, rộng của Việt Nam với thế giới.

Trong các nhiệm vụ ngoại giao, thông tin đối ngoại (TTĐN) luôn giữ vị trí quan trọng. Ở Việt Nam, TTĐN được Đảng, Nhà nước ta quan tâm từ rất sớm. Ngay từ giai đoạn đấu tranh giành độc lập dân tộc, đánh đuổi giặc ngoại xâm, hình ảnh một Việt Nam “đất không rộng, người không đông”, kinh tế khó khăn, vũ khí thô sơ, nhưng ngoan cường, khí phách, trí thông minh tuyệt vời, lấy yếu đánh mạnh đã tạo thành một sức mạnh to lớn, trong thì đoàn kết toàn dân, ngoài thì đoàn kết quốc tế, giành độc lập dân tộc.

Từ khi đất nước thống nhất, đặc biệt là sau hơn 30 năm đổi mới, công tác TTĐN bám sát nhiệm vụ chính trị mới, tiếp tục tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới, vừa bảo vệ nền độc lập, vừa từng bước phá thế bao vây cấm vận, chống quan điểm sai trái, thù địch, từng bước giới thiệu tiềm năng thế mạnh, chủ trương, đường lối phát triển đất nước góp phần hội nhập sâu, mở rộng đầu tư, hợp tác trên các lĩnh vực, đưa Việt Nam ra khỏi nước nghèo và kém phát triển sang nước phát triển có mức thu nhập trung bình thấp và đang hướng tới nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030.

Từ Chỉ thị 11 của Ban Bí thư khóa VII, Chỉ thị 26 của Ban Bí thư khóa X và Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020 của Bộ Chính trị khóa XI, nội dung TTĐN được xác định: thông tin về những thành tựu của đất nước, những chủ trương, chính sách, luật pháp của Việt Nam trên các lĩnh vực, đặc biệt các lĩnh vực ưu tiên về phát triển kinh tế, về những vấn đề các nước, đối tác quan tâm; thông tin về lịch sử văn hóa, con người Việt Nam, tiềm năng, thế mạnh vẻ đẹp đất nước được thiên nhiên ưu đãi; thông tin hướng tới cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, không chỉ hỗ trợ bảo hộ công dân gắn kết với nước sở tại mà còn giúp bà con hướng về cộng đồng, coi người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam; đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Đối tượng thông tin là chính giới, học giả, doanh nghiệp, các đối tác chúng ta quan tâm. Địa bàn thông tin không chỉ có các nước có quan hệ truyền thống, các nước láng giềng, mà còn coi trọng các nước lớn, quốc gia, khu vực có ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Lực lượng tham gia TTĐN không chỉ có lực lượng chuyên trách, các cơ quan, bộ, ban, ngành, doanh nghiệp ở trung ương, địa phương, các cơ quan truyền thông, báo chí mà cả người dân…

Nhờ những nỗ lực chung của cả nước, trong đó có đóng góp không nhỏ của các lực lượng làm công tác TTĐN, vị thế đất nước tiếp tục được nâng lên. Việt Nam là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của tất cả các nước trong thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc và nhiều nước lớn khác, có vị trí quan trọng trong các tổ chức quốc tế. Tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới, kinh tế tăng trưởng khá, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh giữ vững…

 

Tính đến 2017, GDP bình quân đầu người đạt gần 2400 USD, kim ngạch xuất, nhập khẩu đã vượt mốc 400 USD, tổng lực kinh tế đất nước đã vượt mức 200 tỉ USD, 6 tháng đầu năm 2018, tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước đạt 7,08%, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát ở mức 3,29%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt trên 747 nghìn tỉ đồng, tăng 10,1%, tổng số vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 20,33 tỉ USD, tăng 5,7% so với cùng kỳ; cả nước có thêm 64,5 nghìn doanh nghiệp được thành lập mới, du lịch tăng khoảng 27,2%, bình quân mỗi tháng đạt khoảng 1,31 triệu lượt khách nước ngoài, xuất nhập khẩu đạt 225,1 tỉ USD, tăng 13% so với cùng kỳ… Hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực văn hóa, khoa học, giáo dục, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… tiếp tục được mở rộng.

Ngành Ngoại giao có vai trò và đóng góp quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ TTĐN, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước, lực lượng nòng cốt triển khai đường lối đối ngoại của Đảng, thực thi chính sách của Nhà nước trong hoạt động đối ngoại.

Vai trò và đóng góp nổi bật của ngành thể hiện trước hết ở việc. 1) Tham gia tham mưu về chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược đối ngoại, thông tin đối ngoại của đất nước trong từng thời kỳ. 2) Trực tiếp thực hiện vai trò quản lý nhà nước trên lĩnh vực đối ngoại. 3) Trực tiếp tổ chức và thực hiện các sự kiện thông tin đối ngoại, điển hình là các sự kiện có tầm vóc quốc tế như APEC, ASEAN, các tổ chức quốc tế song phương và đa phương, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, nước ngoài ở Việt Nam, các hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước. 4) Tham gia các hoạt động truyền thông, phát ngôn quốc tế và trong nước, giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước trên các cơ quan truyền thông, báo chí trong và ngoài nước. 5) Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch. 6) Phối hợp tham gia, cung cấp thông tin, tổ chức các sự kiện thông tin đối ngoại với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước…

2. NGÀNH NGOẠI GIAO PHÁT HUY VAI TRÒ, ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TTĐN

Cùng với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đang bước vào những năm cuối thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với nhiều thời cơ, thách thức đan xen, ảnh hưởng tới quá trình hội nhập, phát triển của đất nước, đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ mới đối với ngành Ngoại giao và hoạt động TTĐN.

Tuy xu thế hòa bình, hợp tác vẫn là dòng chảy chính, nhưng những biến đổi nhanh chóng, khó lường trong quan hệ quốc tế khiến tình hình thế giới ngày càng phức tạp, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chủ nghĩa khủng bố, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ vẫn thường xuyên xảy ra. Cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt hơn, chủ nghĩa bảo hộ, tranh chấp thương mại diễn biến phức tạp, chủ nghĩa cường quyền, áp đặt, bất bình đẳng, thậm chí vi phạm luật pháp quốc tế, chủ quyền quốc gia, dân tộc vẫn hiện hữu. Xu hướng phân cực, khoảng cách phát triển giữa các nước ngày càng mở rộng, hình thành các cực quyền lực vừa hợp tác, vừa cạnh tranh gay gắt.

Toàn cầu hóa, hội nhập với sự chi phối của các nước lớn, các nước tư bản chủ nghĩa vẫn tiếp diễn, đặt các quốc gia kém phát triển, các nước nhỏ trước nhiều thách thức. Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra bước ngoặt bao gồm cả thuận lợi và khó khăn cho các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển.

Các vấn đề an ninh truyền thống, an ninh  phi truyền thống, biến đổi khí hậu, đói nghèo, bệnh tật… tiếp tục đòi hỏi sự quan tâm chung của mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục chứng kiến sự trỗi dậy của Trung Quốc và một số quốc gia, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn liên quan đến thương mại, chủ quyền, biên giới lãnh thổ, biển, đảo.

Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030 và là nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến năm 2045. Công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nước đi vào chiều sâu, sức mạnh tổng hợp, vị thế quốc gia tiếp tục được nâng lên cả trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, những khó khăn của đất nước còn nhiều, kinh tế phát triển khá nhưng chưa ổn định, sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao, chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh trong quá trình hội nhập.


 

Những yếu kém trong quản lý kinh tế, tình trạng quan liêu, tham nhũng, ô nhiễm môi trường, bất ổn xã hội, vấn đề đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo còn diễn biến phức tạp… Trước bối cảnh đó, công tác TTĐN trong thời gian tới cần quan tâm một số định hướng giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, làm tốt công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước về đường lối đối ngoại và công tác TTĐN. Giai đoạn mới đòi hỏi phải có tầm nhìn dài hạn, dự báo chính xác tình hình thế giới, khu vực để có chiến lược, sách lược đúng đắn về đối ngoại phục vụ sự phát triển, hội nhập của đất nước, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết để xác định trọng tâm, trọng điểm trong TTĐN, xử lý tốt các mối quan hệ giữa ổn định và phát triển; giữa hội nhập quốc tế với độc lập chủ quyền, bản sắc dân tộc; giữa đối tác, đối tượng trong điều kiện mới; giữa ưu tiên trước mắt với mục tiêu lâu dài…

Thứ hai, đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, góp phần giữ vững an ninh chính trị, ổn định đất nước, có chiến lược, sách lược rõ ràng, hóa giải những khó khăn, các đối tượng cản trở, tận dụng cơ hội, phát hiện các nhân tố, đối tác tích cực của quan hệ quốc tế, những bạn bè truyền thống phục vụ phát triển đất nước. Đẩy mạnh các hoạt động TTĐN tại các diễn đàn đa phương, song phương, chủ động tham gia các cơ chế đối thoại, hợp tác với các nước lớn, các quốc gia có ảnh hưởng quan trọng ở khu vực và thế giới.

Thứ ba, tăng cường công tác đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân trong công tác TTĐN, làm tốt công tác bảo hộ công dân, công tác người Việt Nam ở nước ngoài.

Ngành Ngoại giao vừa là cơ quan tham mưu, lực lượng trực tiếp triển khai các hoạt động, vừa là cầu nối cung cấp thông tin từ bên ngoài vào trong nước, từ trong ra ngoài, bám sát đối tượng, tính chất nhiệm vụ, vừa khắc phục tình trạng phân tán, manh mún; làm tốt công tác phát ngôn, xây dựng các ấn phẩm TTĐN hấp dẫn, hiện đại, phù hợp đối tượng; tận dụng thế mạnh của các hãng thông tấn, cơ quan truyền thông lớn ở nước ngoài, cơ quan đại diện báo chí nước ngoài ở Việt Nam, phục vụ hoạt động TTĐN, vừa chủ động về kế hoạch, thống nhất một đầu mối, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển đất nước trong tình hình mới.


 

Thứ tư, phát huy vai trò các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong hoạt động TTĐN. Xây dựng mỗi cơ quan đại diện là cơ quan chỉ đạo, tổ chức thực hiện các hoạt động TTĐN của Việt Nam ở nước ngoài. Coi trọng giới thiệu văn hóa của Việt Nam cả hình thức “tĩnh” như trang trí tranh ảnh, tờ rơi, sách báo, trung tâm văn hóa, trung tâm Hồ Chí Minh học, tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh (ở những nơi thích hợp), đến các hình thức “động” như phối hợp tổ chức sự kiện, phim ảnh, tuần văn hóa, ngày văn hóa… nâng cao hiệu quả hoạt động các trang thông tin điện tử của sứ quán; tổ chức tốt các sự kiện đối ngoại, tiếp xúc chính giới, thương mại; đoàn ra, đoàn vào; mỗi cán bộ sứ quán là một cán bộ làm công tác TTĐN.

Thứ năm, chủ động cung cấp thông tin, là tốt công tác đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Xây dựng cơ chế cung cấp thông tin nhanh nhạy giữa các cơ quan, giữa thông tin đối nội và TTĐN, coi trọng thông tin những vấn đề trong nước có nhu cầu, đồng thời đẩy mạnh thông tin về hình ảnh đất nước phù hợp địa bàn, đối tượng; nội dung thông tin nhấn mạnh chủ trương, tiềm năng, thế mạnh, vể đẹp tiềm ẩn, thân thiện của người Việt Nam, những thành tựu về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, vấn đề đấu tranh chính nghĩa bảo vệ chủ quyền biển đảo; về hình thức thông tin, coi trong thông tin thường xuyên, thông tin mạng (những nội dung phù hợp), chú trọng công tác phát ngôn, thông tin đột xuất, thông tin chiều sâu.

Thứ sáu, coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ TTĐN cho cán bộ ngành Ngoại giao, bảo đảm có đủ năng lực, bản lĩnh chính trị, kỹ năng hoạt động TTĐN. Đối tượng, địa bàn đối ngoại đa dạng, phức tạp, lợi ích, yêu cầu đối ngoại của đất nước ở các địa bàn, khu vực, đối tượng là khác nhau.

Do đó, cán bộ làm TTĐN bên cạnh yêu cầu thông thạo ngoại ngữ, cần được bồi dưỡng về kỹ năng phát ngôn, bảo vệ bí mật nhà nước, hiểu biết các hình thức TTĐN, chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, các nhiệm vụ TTĐN trong từng thời kỳ; kỹ năng tổ chức sự kiện, họp báo, tiếp xúc đối tượng… 

 

PGS.TS.Phạm Văn Linh

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo công tác Thông tin đối ngoại

 

___________________________

Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 8/2018

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất