(TCTG)-Đang trong quá trình hoàn thiện, nhưng Dự thảo Chiến lược mục tiêu quốc gia về DS-SKSS giai đoạn 2011-2020 có thể nói đã phù hợp với tình hình hiện tại của công tác DS-SKSS nước ta.
TS. Nguyễn Bá Thủy, Thứ trưởng Bộ Y tế, Phó Trưởng ban thường trực Ban Soạn thảo Chiến lược DS/SKSS giai đoạn 2011 – 2020 cho biết, 5 nội dung ưu tiên trong lĩnh vực chăm sóc SKSS thời gian tới là Cải thiện chăm sóc trước, trong, sau sinh và chăm sóc sơ sinh. Làm mẹ an toàn phải kết hợp chặt chẽ và không thể tách rời với chăm sóc sơ sinh; Cung cấp dịch vụ KHHGĐ có chất lượng. KHHGĐ không chỉ nhằm mục đích kiểm soát gia tăng dân số mà còn tạo điều kiện cho người phụ nữ giãn khoảng cách sinh. KHHGĐ cũng đồng thời bao gồm cả dự phòng và điều trị vô sinh; Giảm phá thai và loại trừ phá thai không an toàn; Dự phòng và kiểm soát các bệnh nhiễm khuẩn/bệnh lây truyền qua đường tình dục bao gồm cả HIV, ung thư cổ tử cung, ung thư vú và các bệnh phụ khoa khác; Sức khỏe tình dục, SKSS vị thành niên, phòng chống bạo lực, lạm dụng tình dục.
Về mục tiêu cụ thể, GS. Nguyễn Duy Khê, Vụ trưởng Vụ Sức khỏe bà mẹ - trẻ em, cho biết dự thảo bao gồm 10 mục tiêu: 1) Nâng cao sức khỏe, giảm bệnh, tật, và tử vong ở trẻ em. Phấn đấu vào năm 2020 giảm tỷ lệ chết sơ sinh xuống còn dưới 10‰, tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi dưới 12‰, tỷ lệ chết trẻ em dưới 5 tuổi dưới 18‰; 2) Nâng cao sức khỏe bà mẹ, vào năm 2020 giảm 30% tỷ số tử vong mẹ so với năm 2010, thu hẹp đáng kể sự khác biệt về các chỉ báo sức khỏe bà mẹ giữa các vùng, miền; 3) Khống chế tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh để tỷ số này vào năm 2020 không vượt quá 115, đặc biệt tập trung vào các địa phương có tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trầm trọng, tiến tới đưa tỷ số này trở lại mức bình thường; 4) Đáp ứng đầy đủ nhu cầu KHHGĐ của nhân dân, duy trì mức sinh thấp hợp lý để số con trung bình của một cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ (tổng tỷ suất sinh) ở mức 1,8, quy mô dân số không quá 98 triệu người vào năm 2020. Tăng khả năng tiếp cận dịch vụ hỗ trợ sinh sản có chất lượng, vào năm 2020 phấn đấu giảm 50% trường hợp vô sinh thứ phát so với năm 2010; 5) Giảm mạnh phá thai, đưa tỷ số phá thai xuống dưới 25/100 trẻ đẻ sống vào năm 2020, cơ bản loại trừ phá thai không an toàn; 6) Vào năm 2020, giảm 30% tỷ lệ nhiễm khuẩn đường sinh sản, giảm 20% tỷ lệ nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục so với năm 2010. Chủ động phòng ngừa, phát hiện và điều trị sớm ung thư đường sinh sản, ít nhất 50% số người trong nhóm từ 30 đến 54 tuổi được sàng lọc ung thư cổ tử cung và 50% số phụ nữ trên 40 tuổi được sàng lọc ung thư vú vào năm 2020; 7) Cải thiện SKSS vị thành niên và thanh niên, để vào năm 2020 tỷ lệ có thai ở vị thành niên và tỷ lệ phá thai ở vị thành niên đều giảm 50% so với năm 2010 và có ít nhất 75% số điểm cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS có dịch vụ thân thiện cho vị thành niên và thanh niên; 8) Cải thiện SKSS cho các nhóm dân số đặc thù, chú trọng người di cư, người khuyết tật, người có HIV, một số dân tộc có nguy cơ suy thoái. Đáp ứng kịp thời nhu cầu CSSKSS cho người bị bạo hành giới và trong trường hợp thảm hoạ thiên tai; 9) Tăng cường chăm sóc sức khỏe người cao tuổi để ít nhất 50% số người cao tuổi được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe dựa vào cộng đồng vào năm 2020; 10) Tăng cường lồng ghép các biến dân số vào hoạch định chính sách và lập kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, cải thiện hệ thông tin quản lý về dân số, SKSS, đáp ứng yêu cầu xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các cấp, các ngành.
Như vậy, Chiến lược mục tiêu quốc gia về DS-SKSS giai đoạn 2011-2020 được xây dựng dựa trên bối cảnh kinh tế - xã hội 10 năm tới với những nét khác căn bản so với bối cảnh xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010: kinh tế phát triển hơn; y tế, giáo dục có nhiều tiến bộ; truyền thông đại chúng phát triển mạnh mẽ, nhất là sự bùng nổ của Internet; khí hậu ô nhiễm hơn, biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng rõ rệt... Bên cạnh đó, Việt Nam đã kiên trì chính sách giảm sinh và những tiến bộ nhanh chóng về kinh tế - xã hội nên mục tiêu duy trì được xu thế giảm sinh một cách vững chắc và đạt mức sinh thay thế liên tục từ năm 2005 đến nay. Đây là bối cảnh vừa mang lại cơ hội, vừa chứa đựng nhiều thách thức đối với việc cải thiện tình trạng DS/SKSS ở nước ta. Đồng thời, Chiến lược cũng được xây dựng trên cơ sở các địa phương của Việt Nam thành 2 nhóm: Nhóm thứ nhất có trình độ phát triển cao, mức sinh thấp và nhóm thứ hai có trình độ phát triển thấp nhưng mức sinh cao.
Chính vì đó, trong Chiến lược DS-SKSS giai đoạn 2001-2010, các mục tiêu ưu tiên đầu tiên là tạo chuyển biến về nhận thức trong các tầng lớp nhân dân, duy trì xu thế giảm sinh, thì trong dự thảo Chiến lược 2011-2020, mục tiêu được chú trọng hơn cả là chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, khống chế tốc độ tỷ số giới tính khi sinh, giảm tỷ lệ nạo phá thai…
Để thực hiện tốt các mục tiêu trên, theo GS. Nguyễn Duy Khê, Chiến lược mục tiêu quốc gia về DS-SKSS giai đoạn 2011-2020 cũng đã đề ra các giải pháp đồng bộ, trong đó lãnh đạo, tổ chức và quản lý là giải pháp tiên quyết. Truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi và cung cấp dịch vụ DS và SKSS là giải pháp cơ bản. Các giải pháp điều kiện bao gồm: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về DS và SKSS; xã hội hóa, phối hợp liên ngành và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực DS-SKSS; tạo nền tài chính, hậu cần vững chắc cho công tác này. Đồng thời với đó, công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và thông tin tư liệu cũng cần phải được quan tâm. Để thực hiện được các giải pháp trên, đòi hỏi sự đồng thuận của tất cả các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân cùng tham gia thực hiện.
Thương Huyền