Thứ Hai, 2/12/2024
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Thứ Hai, 10/3/2014 21:24'(GMT+7)

Ổn định chính trị, ổn định kinh tế, tạo môi trường hòa bình để tập trung xây dựng, phát triển đất nước là phương pháp tư duy thời sự của chúng ta



Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, Bộ Chính trị đã có quy định 164 về việc bồi dưỡng, cập nhật thông tin, kiến thức mới đối với cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược. Thực tế trong thời gian qua, chúng ta đã tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng, trong đó có lớp dành cho các cán bộ nguồn của Trung ương. Thực hiện Quy định 164, Bộ Chính trị đã quyết định mở 2 lớp bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI. Lớp thứ nhất, gồm 43 đồng chí, đã được tổ chức vào tháng 12.2013. Lớp chúng ta hôm nay là lớp thứ hai, lớp cuối cùng của năm 2014, gồm 111 đồng chí.

Qua theo dõi và nghe báo cáo của Ban Chỉ đạo lớp học, tôi được biết mặc dù bận rất nhiều công việc quan trọng, giữ nhiều trọng trách lớn, thường xuyên phải giải quyết các công việc cấp bách, nhưng các đồng chí đã nghiêm túc bố trí thời gian, sắp xếp công việc để tham dự đầy đủ lớp bồi dưỡng này; tham gia thảo luận tâm huyết các vấn đề đặt ra, đóng góp nhiều ý kiến thẳng thắn, thiết thực. Tôi rất vui mừng trước những kết quả bước đầu mà lớp học chúng ta đã đạt được. Các đồng chí báo cáo viên có nhiều cố gắng, trong thời gian không dài đã chuẩn bị bài thuyết trình có chất lượng, cơ bản đáp ứng được yêu cầu của lớp học. Ban Chỉ đạo lớp học đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan chăm lo cơ sở hậu cần, điều kiện vật chất, thời gian, phương tiện cho 5 ngày học với 8 chuyên đề. Hệ thống chuyên đề được chọn để trình bày tại Lớp học lần này là những vấn đề vừa cơ bản vừa cấp bách, vừa lý luận vừa thực tiễn, vừa hệ thống lại kiến thức cũ vừa bổ sung nhiều nội dung mới, cập nhật tình hình, được các học viên đánh giá cao. Thời gian tới, đề nghị Ban Chỉ đạo lớp học tổng kết, rút kinh nghiệm cho công tác tổ chức các lớp học tiếp sau theo Quy định 164 của Bộ Chính trị. Đây chính là thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) về xây dựng Đảng, phải thường xuyên cập nhật thông tin, kiến thức mới để nâng cao trình độ, phục vụ công việc chỉ đạo, điều hành hàng ngày của cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi xin biểu dương Ban Chỉ đạo lớp học, Ban Tổ chức Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Văn phòng Trung ương Đảng và các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, trong thời gian ngắn đã phối hợp chặt chẽ, tích cực chuẩn bị tốt về nội dung và các điều kiện để tổ chức lớp học đạt kết quả tốt.

Qua suy nghĩ, tôi muốn trao đổi với các đồng chí một vấn đề: đó là phương pháp. Kiến thức là vô hạn, nhất là trong bối cảnh khoa học, công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng, hàng ngày biết bao nhiêu tri thức được cập nhật, chúng ta được nghe biết bao nhiêu thông tin và dường như nghe bao nhiêu cũng thấy thiếu. Vậy cái còn đọng lại là gì? Tôi nhớ cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: kiến thức có thể quên đi, nhưng cái còn lưu lại phải là phương pháp. Tôi thấy câu này rất chí lý. Hay Khổng Tử nói: đời người là hữu hạn, sự hiểu biết là khôn cùng, nếu không có phương pháp mà đem cái hữu hạn để chạy theo cái vô hạn thì nguy hiểm thay... Cho nên, phương pháp là vấn đề rất quan trọng. Nói phương pháp thì có nhiều cấp độ: phương pháp cách mạng, phương pháp học tập, phương pháp nghiên cứu, phương pháp làm việc, phương pháp đối nhân xử thế... Nhưng tôi muốn tập trung trao đổi về một phương pháp: phương pháp tư duy, phương pháp nhận thức, phương pháp tư tưởng, đây là phương pháp cực kỳ quan trọng đối với  người lãnh đạo. Nếu có phương pháp đúng thì sẽ nhận thức đúng, đánh giá đúng vấn đề và giải quyết đúng vấn đề. Còn phương pháp sai thì đôi khi mục tiêu tốt, động cơ tốt nhưng tư duy và hiệu quả bị hạn chế. Thực tế đã cho thấy rõ điều này. Phương pháp là vấn đề gốc, chi phối cách nhìn nhận, xem xét, giải quyết vấn đề trong thực tiễn một cách có hiệu quả. Đương nhiên phương pháp phải trên cơ sở kiến thức. Vậy phương pháp ấy là phương pháp gì? Đó là phương pháp biện chứng duy vật theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Phương pháp biện chứng duy vật là cái gì? Đó là phương pháp xem xét, nhìn nhận sự việc một cách toàn diện, khách quan, cụ thể, lịch sử và theo quan điểm phát triển. Càng ngẫm càng thấy phương pháp này đúng. Bởi vì sự vật nằm trong một mối tổng thể, nhiều mối quan hệ chằng chịt, chí ít là giữa hai mặt đối lập. Bất cứ sự việc, hiện tượng nào phát triển đều trong mối quan hệ vừa mâu thuẫn vừa thống nhất, thống nhất và mâu thuẫn, cái này làm tiền đề cho cái kia và có khi chuyển hóa lẫn nhau. Cái này không mới, nhưng tôi cảm nhận qua thực tiễn cuộc sống và kinh nghiệm bản thân thì càng ngày càng thấy đây là vấn đề cực kỳ quan trọng. Xin nêu một số ví dụ:

Vừa qua chúng ta đã tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, hơn 25 năm tiến hành công cuộc Đổi mới và đang chuẩn bị tổng kết 30 năm đổi mới. Như chúng ta đã biết, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung 8 mối quan hệ lớn. Đầu tiên là mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển, vậy thì xem xét, nhìn nhận mối quan hệ này như thế nào? Cứ nói đổi mới một vế thôi, nhưng một vế phải làm cái gì chứ? Và đổi mới trên cơ sở nào? Vừa qua, chúng ta mới rút ra nhận xét bước đầu: ổn định là tiền đề, đổi mới là động lực và phát triển là mục tiêu... Đảng ta nói đổi mới phải là đổi mới đúng hướng, chứ không thể chệch hướng. Vậy thì xử lý mối quan hệ này như thế nào? Nếu mà không giữ được ổn định thì nói gì đến đổi mới? Nhưng không đổi mới thì không phát triển được? Vừa qua chúng ta đổi mới như thế là đúng hay không đúng? Đổi mới có phát triển không và có giữ được ổn định không? Bây giờ đang có ý kiến nói rằng, chúng ta hết động lực rồi, cần phải sang một giai đoạn đổi mới tiếp – có phải thế không? Hay bây giờ cần bổ sung cái gì để đổi mới? Đổi mới như vừa qua đủ mức chưa, mạnh quá hay chưa tới mức, hay chưa toàn diện?

Một mối quan hệ thứ hai: giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Nói chính xác và chặt chẽ ra là giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị. Việt Nam ta bắt đầu đổi mới từng bước, có giai đoạn tiền đổi mới cũng phải đến 7-8 năm, sau đó đến Đại hội VI (năm 1986) mới chính thức đưa ra đường lối đổi mới. Lúc bấy giờ, chúng ta nói: đổi mới kinh tế là trung tâm, tập trung sức đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính trị một cách vững chắc. Tổng kết 10 năm đổi mới chúng ta rút ra bài học này. Điều đó có đúng không? Kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng, qua lại lẫn nhau. Kinh tế là nền tảng, là cơ sở, kinh tế có phát triển thì chính trị phát triển, chính trị phải đi theo kinh tế. Nhưng ngược lại, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, có tác dụng thúc đẩy, mở đường, đột phá. Vậy xử lý mối quan hệ này như thế nào? Các đồng chí đã học qua Triết học thì thấy rõ vấn đề này rồi. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế và chính trị. Vừa qua ta đổi mới kinh tế thế đã đủ độ chưa? Đổi mới chính trị thế đã đủ độ chưa? Sắp tới đổi mới mạnh chính trị hay tập trung đổi mới kinh tế? Đổi mới chính trị sắp tới là cái gì? Ta nói nhiều đến thể chế. Thể chế là cơ chế, chính sách, hay thể chế chính trị? Chúng ta đã khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là bất di bất dịch, là lý tưởng. Đương nhiên phải hiểu chủ nghĩa xã hội một cách đúng đắn, chứ không phải chủ nghĩa xã hội theo kiểu ngày xưa trong mô hình tập trung quan liêu bao cấp. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị – một mối quan hệ rất quan trọng cần nắm vững và giải quyết thật tốt.

Hay mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác là mối quan hệ giữa thị trường và vai trò quản lý của Nhà nước – vấn đề chúng ta đang mắc, đang tranh luận vì cứ nói định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng chưa rõ, còn lúng túng. Bây giờ có quan niệm cứ để thị trường chi phối, Nhà nước can thiệp làm gì (?). Trước kia khi thực hiện mô hình tập trung quan liêu bao cấp thì chúng ta coi nhẹ thị trường, không cần nền kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Còn tư bản chủ nghĩa thì phát triển thị trường một cách hết mức, gọi là chủ nghĩa tư bản tự do, kinh tế thị trường tự do để thị trường chi phối tất cả. Nhưng cũng chính chủ nghĩa tư bản lại thấy bất ổn, dẫn đến phân cực giàu – nghèo, tất cả là tiền thôi. Có đúng thế không? Cho nên, có những lúc người ta phải điều chỉnh. Qua nghiên cứu nhiều học thuyết kinh tế trên thế giới và thực tiễn cuộc sống lại thấy phải là Nhà nước và thị trường. Thị trường và Nhà nước như hai bàn tay vỗ vào nhau thì mới đáp ứng được, mới có kết quả. Tách riêng thị trường hay tách riêng Nhà nước đều không được. Chúng ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, coi nhẹ thị trường sang thị trường nhưng xác định là chuyển từng bước vững chắc. Tại Đại hội VII, khi thảo luận xây dựng Cương lĩnh năm 1991, nền kinh tế chúng ta chủ trương phát triển là một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và dưới sự lãnh đạo của Đảng. Rất chặt chẽ. Sau đó, càng ngày chúng ta càng phát triển quan điểm này. Đến Đại hội IX, chúng ta nói lại công thức: phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, nhưng gọn lại, nói tắt là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – một bước phát triển rất lớn về lý luận của Đảng ta. Trong khi một số nước thừa nhận kinh tế thị trường xã hội. Nhưng một cực khác, đôi khi nhấn mạnh quá vấn đề xã hội trong khi điều kiện kinh tế không bảo đảm thì lại làm triệt tiêu mất động lực để phát triển kinh tế, cứ trông chờ vào trợ cấp của Nhà nước – lại phải điều chỉnh. Cho nên việc xử lý mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội, giữa thị trường và vai trò quản lý của Nhà nước là cực kỳ quan trọng. Và một trong những tiêu chí để nói lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta chính là phải có vai trò quản lý của Nhà nước. Định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta là kinh tế tăng trưởng nhưng phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Chúng ta nói là tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, bảo đảm công bằng xã hội, chăm lo chính sách xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Vừa qua chúng ta xử lý mối quan hệ giữa thị trường và sự quản lý của Nhà nước như thế đúng hay sai? Đầu tư vào thị trường đến đâu? Nhận thức về vai trò quản lý của Nhà nước thế nào? Bây giờ Nhà nước không phải quản lý bằng hành chính như trước mà Nhà nước quản lý bằng kế hoạch, quy hoạch, bằng quy luật kinh tế... Đấy là những bước phát triển rất nhiều về tư duy của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Và đây tiếp tục là câu chuyện thời sự hàng ngày chúng ta đang phải xử lý.

Hay mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, cũng rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu, xử lý. Trước đây, chúng ta nói độc lập, tự chủ thôi. Nhưng dần dần sau này chúng ta từng bước mở cửa, đồng thời giữ vững kinh tế độc lập. Cũng có ý kiến cho rằng, chúng ta có giữ được độc lập, tự chủ cho kinh tế không, vì tất cả đang phải đi mua, từ điện, thép, xi măng, đến cơ khí chế tạo...? Trong khi đó lại có ý kiến cho rằng, trong thời buổi hội nhập này, thế giới rẻ hơn ta thì tội gì ta phải làm? Rất thiết thực. Cho nên giữa độc lập, tự chủ và mở cửa hội nhập quốc tế, trong đó có kinh tế có mối quan hệ rất biện chứng.

Tôi muốn nói một mối quan hệ rất biện chứng nữa, giữa tập trung và dân chủ, dân chủ và tập trung. Nếu như phiến diện, không có quan điểm biện chứng duy vật thì thường dễ nhấn vào mặt này, coi nhẹ mặt khác, dẫn đến cực đoan, duy ý chí. Xử lý ra sao đây? Nhưng dân chủ đến mức nào? Còn nếu tập trung quá mức thì dễ dẫn đến độc đoán, chuyên quyền. Cho nên, nguyên tắc của Đảng ta là tập trung dân chủ là vô cùng quan trọng. Đây chính là nguyên tắc bảo đảm sức mạnh của Đảng ta, vừa phát huy được xu thế, không khí dân chủ, trí tuệ trong toàn Đảng, nhưng đồng thời bảo đảm Đảng là một tổ chức tập trung, thống nhất, đoàn kết, chặt chẽ cao. Nếu Đảng mà chia rẽ, Đảng mà có bè phái, có phe nhóm thì vô cùng nguy hiểm. Nhưng lại tập trung theo nghĩa độc đoán, chuyên quyền, bóp chết dân chủ, dân chủ hình thức thì không được. Cho nên nói tập trung và dân chủ, dân chủ và tập trung là mối quan hệ biện chứng là vì thế. Trước đây Bác Hồ đã nói, tội bè phái gây chia rẽ trong Đảng là tội lớn nhất. Gần đây, tình hình một số nước cho ta thấy rõ, ra đời bao nhiêu đảng phái, tổ chức đối lập, bên ngoài xía vào một cách ngấm ngầm, giúp tiền, giúp kế hoạch, bồi dưỡng cán bộ... đến một chừng mực nào đó, chỉ cần có một động thái nào đó thì ở bên ngoài hích vào một cái, cung cấp tiền... là xong. Cho nên phải hiểu mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ, dân chủ và tập trung.  

Còn rất nhiều mối quan hệ nữa, giữa sách lược và chiến lược. Có hy sinh chiến lược lấy sách lược không trong khi chiến lược là vấn đề cơ bản, lâu dài, nguyên tắc, còn sách lược chỉ dùng trong thời gian ngắn, là biện pháp kỹ thuật nào đó thôi chứ. Cho nên tại sao Bác Hồ nói phải dĩ bất biến ứng vạn biến, nắm rất chắc các vấn đề có tính nguyên tắc, có tính chiến lược, không có lay động, không suy suyển. Còn những cái khác có thể linh hoạt. Giữa nguyên tắc và linh hoạt cũng là một mối quan hệ. Linh hoạt quá thành vô nguyên tắc, còn nguyên tắc cứng đờ thì cũng là hỏng. Hay có thể nói thêm một mối quan hệ nữa: giữa độc lập, bảo vệ chủ quyền, thống nhất đất nước với bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng và giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Chúng ta có nên nói một chiều giữ độc lập, bảo vệ chủ quyền mà quên mất rằng, các thế lực xấu bên ngoài đang tìm mọi cách để xóa bỏ chế độ của chúng ta, xóa vai trò lãnh đạo của Đảng. Nếu chế độ chính trị này mất, nếu Đảng này mất thì liệu có còn giữ được độc lập chủ quyền không? Trong khi đó lại có một yêu cầu nữa là phải giữ cho được môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, nếu không giữ được môi trường hòa bình, ổn định thì làm sao xây dựng và phát triển đất nước? Rất toàn diện.

Xin gợi ra một số ví dụ như thế để nói rằng: chúng ta phải có một phương pháp nhìn nhận, xem xét vấn đề một cách biện chứng, toàn diện, lịch sử, cụ thể, phát triển trong các mối quan hệ. Nếu không sẽ bị trả giá, từ cực này nhảy sang cực kia một cách chủ quan, duy ý chí. Nói như thế không có nghĩa là ba phải, nếu lúc nào cũng phải nhìn toàn diện như thế thì chẳng dám đột phá, chẳng có trọng tâm, trọng điểm gì cả - cũng không phải. Trong cái nhìn toàn diện ấy thì trong mỗi giai đoạn cụ thể, mối quan hệ cụ thể lại phải chọn được khâu đột phá, chọn được mũi trọng tâm, trọng điểm. Ở đây đòi hỏi phải có bản lĩnh, trình độ và nghệ thuật của người lãnh đạo. Tài giỏi, khả năng chính là ở chỗ đấy. Còn nếu cuối cùng chỉ vì quan điểm toàn diện, dàn đều tất cả thì lại không có đột phá và như thế cũng chẳng có cách mạng, chẳng có đổi mới. Nó phải từ từ tiệm tiến đến một độ nào đó thì có bước nhảy vọt. Cho nên, tôi nói không cực đoan phải nhìn toàn diện là vì thế, nếu không lại thành ba phải, chung chung chủ nghĩa.

Chúng ta có thể học rất nhiều, kiến thức rất phong phú và tương đối toàn diện, nhưng kiến thức không ai nhớ được hết. Cái còn lại chính là phương pháp. Và phương pháp ấy là phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp nhìn nhận, xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng, thậm chí đánh giá con người, đánh giá cán bộ. Nếu không có phương pháp đúng thì khó mà gặp nhau vì ý kiến khác nhau rất nhiều. Đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội khó khăn hay đi lên, tô hồng hay bôi đen - rất là nhiều cái khác nhau, vì sao? Có thể vì thiếu thông tin, thông tin không chính xác, nhưng cũng có vấn đề về phương pháp đánh giá. Các đồng chí công tác tại địa phương, tại ngành đánh giá khác nhau, lãnh đạo đánh giá khác, các nhà khoa học đánh giá khác, doanh nghiệp đánh giá khác. Vậy thì phải tìm tiếng nói chung, đó phải là phương pháp nhìn nhận, xem xét một cách toàn diện, lịch sử, cụ thể và trong chiều hướng phát triển đi lên thì mới gặp được nhau, nếu không thì ý kiến sẽ luôn luôn khác nhau. Phải trên cơ sở cách nhìn ấy mà lựa chọn ra phương pháp ứng xử, phương pháp giải quyết công việc cụ thể hàng ngày chi phối chúng ta.

Nhiệm vụ của chúng ta từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng là gì? Năm 2014, năm 2015, bên cạnh những mặt thuận lợi hết sức cơ bản thì đất nước ta đang đứng trước những nhiệm vụ hết sức khó khăn, nặng nề, phức tạp. Yêu cầu chung nhất là phải làm sao tiếp tục hoàn thành thật tốt nhiệm vụ của nhiệm kỳ Đại hội XI, nhất là khắc phục cho được những yếu kém, khuyết điểm đã chỉ ra; đồng thời chuẩn bị tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XII của Đảng. Mừng là năm 2013 chúng ta đang có đà đi lên. Và một tinh thần quyết tâm trong Bộ Chính trị, trong Trung ương mà các đồng chí đã nêu lên là đồng lòng, nhất trí, đoàn kết, thống nhất cao để chúng ta thực hiện cho được nhiệm vụ của Đại hội XI. Trong đó, có một số việc cụ thể cần phải tập trung giải quyết.

Thứ nhất là phải tiếp tục giữ cho được ổn định chính trị, ổn định kinh tế, tạo môi trường hòa bình để tập trung xây dựng, phát triển đất nước. Đây chính là tiền đề để chúng ta đổi mới và phát triển. Nói ổn định không có nghĩa là đổi mới phải co lại.

Thứ hai, phấn đấu thực hiện thật tốt các nhiệm vụ kinh tế - xã hội theo các nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị, của Quốc hội và dưới sự giám sát ngày càng chặt chẽ hơn từ MTTQ, các đoàn thể nhân dân. Kinh tế là trung tâm, là nền tảng, nếu như kinh tế 2 năm nữa tiếp tục đi xuống, khó khăn thì chúng ta sẽ thế nào? Phải bằng mọi cách để tập trung cho nhiệm vụ kinh tế, nhất là những khâu chúng ta đang triển khai: đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh, tập trung vào 3 khâu đột phá, kết hợp những nhiệm vụ Trung ương nêu ra, Quốc hội đã quyết định và Chính phủ đang quyết liệt chỉ đạo thực hiện. Đồng thời với phát triển kinh tế phải chăm lo các vấn đề về chính sách xã hội.

Thứ ba, tiếp tục xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, tập trung vào thực hiện thật tốt hơn nữa Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) về xây dựng Đảng gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đánh giá chung việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 vừa rồi cho thấy càng ngày càng thấy Nghị quyết ngấm vào cuộc sống, mỗi đồng chí tiếp tục tự soi, tự sửa để chấn chỉnh trong Đảng, phải giữ cho được nội bộ đoàn kết, thống nhất. Đồng thời, tiến hành cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Chống cho được, phòng cho được tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, giải quyết những khiếu nại, tố cáo của dân.

Thứ tư, cũng là xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, nhưng phải được coi như một nhiệm vụ quan trọng, đó là chống cho được nguy cơ tự diễn biến, tự chuyển hóa, phai nhạt bản chất cách mạng, xa rời tư tưởng, mục đích của Đảng. Làm tốt hơn nữa công tác bảo vệ chính trị nội bộ, kiên quyết không để hình thành các tổ chức đối lập. Trong Đảng phải kiên quyết không để hình thành các hoạt động bè phái, phe nhóm, mà như trên đã nói là tội lớn nhất trong Đảng. Muốn thế phải hết sức giữ nguyên tắc, đề cao cảnh giác cách mạng và đây là nhiệm vụ tất cả các cơ quan, tổ chức Đảng phải làm. Rồi công tác đề phòng chính bản thân chúng ta tự diễn biến, tự chuyển hóa, vì bên ngoài bây giờ đang kích vào bằng rất nhiều cách. Đồng thời, kiên quyết bảo vệ cho được độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ chính trị và tạo môi trường hòa bình, thuận lợi để chúng ta xây dựng và phát triển đất nước.

Thứ năm, chuẩn bị rất tích cực để chuẩn bị tiến tới Đại hội XII của Đảng, trong đó tập trung vào hai vấn đề là văn kiện và nhân sự. Vừa qua có ý kiến nói là Văn kiện Đại hội Đảng thì kỳ nào cũng chỉ có thế thôi, nên tập trung vào công tác nhân sự, vì thấy lo về nhân sự lắm. Ý kiến đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu nói là Văn kiện Đại hội không có vấn đề gì thì không phải. Đến Đại hội XII, chúng ta đưa ra chủ trương, quyết sách gì mới, vừa kế thừa vừa phát triển, nhất là sau 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới? Có vấn đề gì vướng mắc, khó khăn cần tập trung thảo luận không? Có phải chúng ta đã hết động lực đổi mới và sắp tới tại Đại hội XII phải thành cái pha mới của đổi mới không? Có ý kiến nói như thế đấy. Chúng ta phải nghiên cứu, trả lời cho được những câu hỏi đó chứ. Đó là chưa kể đến những thế lực bên ngoài vẫn kiên trì chống phá chúng ta, không phải chỉ chống phá về nhân sự mà chống phá cả về đường lối. Vừa rồi tại Đại hội XI, chống phá chúng ta về Cương lĩnh không được, lại tập trung vào dịp chúng ta sửa Hiến pháp. Cái đó quá rõ rồi. Mục đích là tìm mọi cách để xóa sự lãnh đạo của Đảng, xóa chế độ chính trị này, xóa Nhà nước này, muốn đi con đường khác, muốn đa Đảng... Cho nên nói Văn kiện không có vấn đề gì là không phải. Chúng ta đang tổng kết 30 năm đổi mới và chuẩn bị các nội dung thảo luận tại Đại hội XII. Rất là khó. Muốn Đại hội XII tốt thì Đại hội Đảng bộ các cấp phải tốt. Chúng ta phải quán triệt tinh thần này.

Sau lớp học này, tôi mong các đồng chí tiếp tục phát huy những kết quả bước đầu thu hoạch được, tự nghiên cứu, tự học là chính và xác định học tập suốt đời. Và phải có phương pháp học thế nào, phương pháp tư duy thế nào, vì hàng ngày mỗi đồng chí phải giải quyết bao nhiêu công việc, cơ bản cũng có, đột xuất cũng có, thường xuyên cũng có - phải có chương trình tự học thế nào để nâng cao trình độ. Qua lớp học lần này, tôi đề nghị Ban Chỉ đạo lớp học lắng nghe, tiếp thu các ý kiến, kiến nghị của các đồng chí, tổng hợp, rút kinh nghiệm, thật sự cầu thị để tổ chức tốt hơn các lớp sau.

Xin chúc các đồng chí sức khỏe, hạnh phúc, thành công trên cương vị công tác, ra về với kiến thức mới, nhận thức mới để thực hiện tốt trọng trách, nhiệm vụ được giao.

Thanh Tâm lược ghi
(Theo Báo ĐBND )
Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất