TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Đoàn
kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, được truyền từ đời
này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, như là sợi dây gắn
kết, trao truyền giữa các thời kỳ, thế hệ với nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã kế thừa truyền thống đó của ông cha ta trong lịch sử, nâng tầm thành
những tư tưởng triết lý sâu sắc để giáo dục, bồi dưỡng và vận động, tập
hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân vào Mặt trận dân tộc thống nhất,
Mặt trận Việt Minh, nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đấu tranh cho sự
nghiệp cách mạng giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc không chỉ
có tác dụng trong bối cảnh lịch sử đất nước bị xâm lược bởi chủ nghĩa đế
quốc, thực dân, mà còn tiếp tục phát huy tác dụng đối với sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị
thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Người khẳng định:
“Không đoàn kết thì suy và mất. Có đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta
phải lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước
nhà”(1). Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, khi toàn dân tộc ta
đoàn kết, thống nhất một lòng thì dân tộc sẽ trường tồn, phát triển,
đạt được mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Do đó, yêu cầu
đặt ra là biết tập hợp ý kiến, quan điểm riêng lẻ thành một phương
hướng, mục tiêu chung thống nhất - đó là hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội; muốn vậy thì phải: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”(2). Người nhấn mạnh, mục đích, nhiệm vụ của đoàn kết là: “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”(3); “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”(4).
Người cho rằng, đoàn kết là phải mang tính toàn dân, rộng khắp, không
phân biệt già, trẻ, gái, trai, thành phần, dân tộc, vùng, miền, hễ là
người Việt Nam đều phải yêu nước, tham gia vào các phong trào cách mạng
khác nhau. Người cũng chỉ rõ, phải: “Đoàn kết rộng rãi và lâu dài”, “Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”(5).
Kế
thừa và vận dụng sáng tạo, linh hoạt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương, đường lối thực hiện đại đoàn kết
phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ở từng thời điểm, giai đoạn cụ thể.
Đảng ta luôn khẳng định, đoàn kết là đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh to lớn của mọi thắng lợi; do vậy, phải
có chủ trương, biện pháp đúng, trúng để giữ vững, củng cố và phát triển
khối đại đoàn kết toàn dân tộc thành lực lượng cách mạng to lớn, đóng
góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng cụ thể
hóa, thể chế hóa thành nghị quyết, chỉ thị, kết luận sát hợp với đặc
điểm tình hình, điều kiện, gắn với quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm
của các giai cấp, giai tầng xã hội, nhất là từ khi đất nước tiến hành
đổi mới đến nay. Đảng đã ban hành và chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ
trương về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong thời kỳ
đổi mới, cùng với các văn kiện Đại hội Đảng từ khóa VI đến khóa XIII,
quan điểm về đại đoàn kết toàn dân tộc cũng được khẳng định, cụ thể hóa
trong các nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương qua các nhiệm kỳ(6).
Dưới
sự lãnh đạo của Ðảng, các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành phần,
giai cấp, dân tộc, tôn giáo, đã tập hợp đoàn kết trong Mặt trận dân tộc
thống nhất để tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giành thắng
lợi lịch sử trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong xây dựng và phát triển đất nước: “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy. Ban
hành và thực hiện có hiệu quả nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật
nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới
nội dung và phương thức hoạt động, vận động đông đảo nhân dân tham gia
các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò đại
diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và
nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội; làm tốt vai
trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước và hệ thống chính trị, góp phần tích cực vào những thành tựu chung
của đất nước”(7).
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc
hội Vương Đình Huệ với nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. (Ảnh: TTXVN)
MỘT SỐ KẾT QUẢ NỔI BẬT VỀ PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC VÌ MỤC TIÊU "DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH, DÂN CHỦ, CÔNG BẰNG, VĂN MINH"
Thứ nhất, phát triển định hướng chính sách, nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Đảng
đã ban hành nhiều nghị quyết về phát triển kinh tế, trọng tâm là các
nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương qua các năm về phát triển kinh
tế tư nhân(8). Cụ thể hóa chủ trương đó, Nhà
nước đã nỗ lực, tích cực, khẩn trương xây dựng, sửa đổi, bổ sung hệ
thống pháp luật về kinh tế, nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới
và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; trọng tâm là các vấn đề về cải
cách thể chế, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển; xóa bỏ những quy định
hạn chế cạnh tranh, phân biệt đối xử; hoàn thiện thủ tục hành chính về
doanh nghiệp theo hướng tập trung, đơn giản hóa, thực hiện chế độ công
khai, minh bạch. Đảng ta luôn khẳng định quan điểm gắn tăng trưởng kinh
tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, trong
đó vai trò điều tiết và quản lý vĩ mô của Nhà nước là rất quan trọng và
quyết định. Hệ thống chính sách, pháp luật về việc làm, thực hiện an
sinh xã hội và công bằng xã hội giữa các giai cấp, tầng lớp nhân dân,
giữa các vùng, miền luôn được bảo đảm, đặc biệt là chính sách giảm
nghèo, xây dựng nông thôn mới, chính sách trợ giúp xã hội cho người yếu
thế, người có công với cách mạng luôn được quan tâm.
Công
tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tạo được chuyển biến
tích cực, có bước đột phá, ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết giữa
“xây” và “chống”. Từ năm 2013 đến năm 2022, các cơ quan tiến hành tố
tụng cấp trung ương và địa phương đã khởi tố, điều tra 14.300/24.410 bị
can; xét xử sơ thẩm hơn 11.700/22.600 bị cáo về tham nhũng kinh tế, chức
vụ. Riêng Ban Chỉ đạo Trung ương và Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực từ khi thành lập đến nay đã đưa 800 vụ án, vụ
việc tham nhũng kinh tế nghiêm trọng, phức tạp được dư luận xã hội quan
tâm vào diện theo dõi, chỉ đạo ở 3 cấp độ; trong đó, Ban Chỉ đạo Trung
ương theo dõi, chỉ đạo 180 vụ án, 133 vụ việc, đã xét xử sơ thẩm 120 vụ
án/1.083 bị cáo, với mức án rất nghiêm khắc, đúng pháp luật, có tác dụng
cảnh tỉnh, răn đe, phòng, chống tham nhũng hiệu quả, tạo bước đột phá
trong công tác phát hiện và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Công tác
giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội được cấp ủy, chính quyền từ Trung ương đến các địa
phương chú trọng tổ chức thực hiện, có nhiều chuyển biến, tiến bộ và đạt
được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội các cấp đã chủ trì và tham gia cùng các cơ quan,
tổ chức giám sát nhiều nội dung quan trọng liên quan đến quyền, lợi ích
hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Thứ hai, phát huy vai trò của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc
Chính
phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2011 - 2020 và giai đoạn 2021 - 2030, chỉ đạo đẩy mạnh công tác
cải cách hành chính, từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước các cấp; xây dựng tác phong làm việc của cán bộ,
công chức phục vụ nhân dân. Giai đoạn 2016-2021, tập trung
vào việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia, cắt giảm 3.893/6.191 điều kiện kinh doanh, 6.776/9.926
danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành, tiết kiệm hơn 18 triệu
ngày công/năm, tương đương hơn 6.300 tỷ đồng/năm. Chú trọng xây dựng
khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính; nhiều bộ,
cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương đã có sự cải thiện tích cực về
các chỉ số, như cải cách hành chính, quản trị và hành chính công, sự hài
lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính
nhà nước. Các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo việc tiếp tục xây dựng tổ
chức bộ máy các cơ quan nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
thực hiện thí điểm một số mô hình tổ chức phù hợp với thực tiễn và đặc
thù của địa phương; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất
chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và tận
tụy phục vụ nhân dân. Công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh và
triển khai đồng bộ, cải cách chế độ công vụ, công chức, đổi mới phương
thức, lề lối làm việc, giải quyết thủ tục hành chính trên cơ sở ứng dụng
mạnh mẽ công nghệ thông tin, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện
tử, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các
cấp, lấy sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ
quan hành chính nhà nước làm mục tiêu phấn đấu. Công tác dân vận của các
cơ quan nhà nước đã huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội, thực hiện
tốt chương trình giảm nghèo bền vững; công tác chăm lo, nâng cao đời
sống vật chất, văn hóa tinh thần cho nhân dân được quan tâm, tập trung
vào đối tượng gia đình chính sách, người có công, hộ nghèo, cận nghèo,
công nhân, người lao động ở khu chế xuất, khu công nghiệp, sinh viên,
học sinh có hoàn cảnh khó khăn, người già neo đơn, trẻ mồ côi, người
khuyết tật,...
Thứ ba, mở rộng và đa dạng hóa hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc
Đảng
lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội tập
trung đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; đa dạng hóa hình thức tập
hợp, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tham gia xây dựng và phát
huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; trong đó, Đảng lãnh đạo, chính
quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể tham mưu và
làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Nhiều hình thức tập hợp lực lượng
sinh động, hiệu quả, như: 1) Tuyên truyền, vận động, thuyết phục các
giai cấp, tầng lớp nhân dân, nhân sĩ, trí thức, người có uy tín tiêu
biểu đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc; 2) Tổ chức các cuộc
vận động, các phong trào thi đua yêu nước từ Trung ương đến cơ sở; 3)
Xây dựng các chương trình hành động, các đề án hoạt động xã hội phong
phú, thiết thực, như đề án bảo vệ môi trường, bảo trợ xã hội, hoạt động
nhân đạo, từ thiện ở các cấp,... 4) Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc thông qua tổ chức “Ngày hội Đại đoàn kết” trên khắp mọi
miền của đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã
hội các cấp đã thực hiện tốt vai trò nòng cốt, tập hợp và hướng dẫn các
hội quần chúng hoạt động, đặc biệt là ở cơ sở; phối hợp với các hội
trong công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân
chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; tích cực thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu
nước, gắn với “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”, như cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông
thôn mới, đô thị văn minh”, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”;
phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”...
Thứ
tư, tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công
dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu
nước
Đa
dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phát huy tính tích cực của các
phương tiện truyền thông đại chúng làm tốt công tác chính trị, tư tưởng,
tạo sự đồng thuận của xã hội. Phát động và
thực hiện tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước trên
các lĩnh vực; tôn vinh người tốt, biểu dương việc tốt để tạo động lực
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ
năm, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh và đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn
kết toàn dân tộc
Kiên
trì cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; củng cố sự đoàn kết thống
nhất trong toàn Đảng và trong từng tổ chức đảng; phát huy vai trò gương
mẫu của đội ngũ đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu;
hoàn thiện cơ chế động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Đảng
tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo đối với cơ quan, tổ chức trong
hệ thống chính trị; đổi mới thông qua công tác tuyên truyền, vận động,
tổ chức bộ máy và công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tăng cường kiểm soát
quyền lực, thực hiện trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng
viên; đổi mới phong cách và lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của
Đảng. Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị -
xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát triển tổ
chức, thành viên, đoàn viên, hội viên, vận động nhân dân tham gia tham
gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, phát huy tốt vai
trò đại diện, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát, phản biện xã hội;
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm tốt vai trò cầu nối vững
chắc giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh.
Những
kết quả đó góp phần tăng cường mở rộng dân chủ, phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận trong xã hội, đẩy mạnh các
phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động; xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; củng cố, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Kinh tế - xã hội đất
nước phát triển nhanh và ổn định, tỷ lệ hộ nghèo giảm, đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên, an sinh xã hội
được tăng cường, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng;
giải quyết tốt các vấn đề xã hội và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội;
từng bước khắc phục sự chênh lệch trong phát triển giữa các vùng, miền,
khu vực, góp phần tạo dựng để đất nước ta “có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(9).
Bên
cạnh kết quả đạt được, vẫn còn bất cập, hạn chế, như việc cụ thể hóa và
tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc ở một số lĩnh vực, địa bàn kết quả còn thấp;
nhiều nguồn lực trong nhân dân chưa được phát huy hiệu quả, đời sống của
một bộ phận nhân dân còn khó khăn, khoảng cách giữa các vùng, miền, khu
vực còn lớn. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát,
dân thụ hưởng” chưa được cụ thể hóa kịp thời, quyền làm chủ của nhân dân
có nơi còn bị vi phạm. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội chưa phát huy hết vai trò trong tập hợp, đoàn kết các tầng
lớp nhân dân; chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm đại diện quyền, lợi ích
hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; hoạt động giám sát, phản
biện xã hội chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Nguyên
nhân của bất cập, hạn chế chủ yếu là: 1) Nhận thức của một số cấp ủy,
tổ chức đảng chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, tầm quan trọng của phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới; một bộ phận cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức thiếu gương mẫu, chưa thực sự tôn
trọng nhân dân, không kịp thời giải quyết bức xúc, kiến nghị của nhân
dân; 2) Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm rõ nội
dung cốt lõi về đại đoàn kết toàn dân tộc, về sự biến động và những vấn
đề mới đặt ra đối với mỗi giai tầng, về liên minh giữa giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong điều kiện mới; 3) Một
số chính sách, pháp luật được ban hành chưa sát với thực tiễn cuộc sống,
khi thực hiện gây nhiều bức xúc trong nhân dân; có chủ trương đúng,
nhưng chậm được triển khai, thực hiện trong thực tiễn; 4) Sự chống phá
của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhằm chia rẽ nhân
dân với Đảng, Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN MỚI
Một là, nâng
cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và nhân dân
về vị trí, tầm quan trọng phát huy sức mạnh của nhân dân, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới. Tiếp tục quán triệt sâu sắc
tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại
thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong
nhận thức, hành động của cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị, của
đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ lực
lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân về xây dựng khối đại đoàn kết và
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chú
trọng công tác chính trị, tư tưởng, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền,
tăng cường và nâng cao chất lượng giáo dục về tinh thần dân tộc, truyền
thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, khoan dung; trách nhiệm công dân;
đạo đức xã hội cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phát huy hiệu
quả các phương tiện truyền thông đại chúng, các loại hình văn hóa, nghệ
thuật; đồng thời, ứng dụng các phương thức truyền thông mới trong tuyên
truyền, giáo dục truyền thống; coi trọng xây dựng và phát huy vai trò
của người có uy tín trong tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu
số và đồng bào theo tôn giáo. Chủ động phát hiện, kiên quyết đấu tranh
phòng, chống âm mưu, hành động chia rẽ nhân dân với Đảng và Nhà nước,
chia rẽ và phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, tiếp
tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện chủ trương, chính sách phù hợp tình
hình thực tiễn, nhằm tăng cường, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò, sự đóng góp của các tầng
lớp nhân dân, khơi dậy, phát huy mọi nguồn lực, vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn làm rõ những nhân tố tác động đến sự phân hóa, biến động của
các giai tầng xã hội; làm rõ nội hàm về đại đoàn kết toàn dân tộc, về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và nội dung cốt lõi của liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong
tình hình mới; xây dựng và triển khai chiến lược đại đoàn kết toàn dân
tộc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ba là, tiếp
tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, kiên trì thực hiện
tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị theo Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, khóa XII và Kết luận số
21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về "Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết
ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa””, làm cho Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh; củng cố, tăng
cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, thắt chặt mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Quân và dân tuần tra biên giới. (Ảnh: TTXVN)
Thực
hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình;
trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng
đầu cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền các cấp. Xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; sâu sát cơ sở, gắn
bó mật thiết với nhân dân, luôn hành động vì lợi ích và hạnh phúc của
nhân dân. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân
làm tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng tổ chức đảng và chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Bốn là, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động phục vụ nhân dân của Nhà nước. Tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo. Xây dựng hệ
thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công
khai, minh bạch, ổn định. Việc xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật
của Nhà nước phải thật sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, bảo đảm hài hòa lợi
ích trong xã hội.
Mọi
hoạt động của cơ quan nhà nước, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức phải phục vụ nhân dân, lo trước nhân dân, vui sau nhân dân; lấy ấm
no và hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; lấy quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy
đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững. Phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân; xây dựng cơ chế, chính sách
khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo, phát huy tinh thần cống hiến vì đất
nước của các tổ chức xã hội và mọi người dân Việt Nam ở trong và ngoài
nước, góp phần xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Thực
hiện đúng đắn chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, chính sách dân tộc,
chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước.
Năm là, phát huy mọi nguồn lực xã hội, tiếp tục phát triển kinh tế, nhằm nâng cao đời sống nhân dân. Huy
động và sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực cho phát triển đất nước;
cần có cơ chế phù hợp để huy động nguồn lực xã hội, nguồn vốn từ các
quỹ ngoài ngân sách, quỹ doanh nghiệp, khu vực tư nhân để tiếp tục phát
triển kinh tế, nhằm nâng cao đời sống nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình trong tham gia hoạch định chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch lớn của Nhà nước. Cả hệ thống
chính trị tập trung vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên nỗ lực phấn
đấu, thi đua trong điều kiện mới, phát triển kinh tế, làm giàu chính
đáng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Sáu là, phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội. Thể chế hóa
và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước bằng hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ
ở cơ sở. Tổ chức thực hiện tốt Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022
và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát,
dân thụ hưởng” trong tất cả loại hình tổ chức và đơn vị cơ sở thuộc các
cấp, các ngành, trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang và các hội
quần chúng.
Phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã
hội. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, hình thức phù hợp để nhân dân tham gia
ý kiến đối với những vấn đề lớn và quan trọng của đất nước. Trước khi
ban hành chủ trương, chính sách quan trọng, liên quan mật thiết đến cuộc
sống của nhân dân, tạo điều kiện tối đa để nhân dân bày tỏ ý kiến đóng
góp của mình. Phát huy hiệu quả vai trò giám sát, phản biện xã hội và
góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của nhân dân, trọng tâm là
trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, vai trò gương mẫu của đội ngũ cán
bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; đổi mới hoạt động quản lý nhà
nước, những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân và phát
triển bền vững đất nước.
Bảy là, tiếp
tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng. Hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần
chúng tiếp tục đi vào thực chất, có trọng tâm, trọng điểm, vận động mọi
tầng lớp nhân dân; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường,
tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và
tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và
động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Chú
trọng xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng, không
ngừng đổi mới tư duy sáng tạo, có bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách vì sự phát triển
chung của đất nước. Đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động tuyên truyền, vận động, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện
vọng hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân, phù hợp với biến
đổi cơ cấu xã hội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển
mới.
Tám là, đổi
mới phong trào thi đua theo hướng thiết thực, kịp thời, hiệu quả hướng
mạnh về cơ sở để người dân có nhiều cơ hội tham gia, thực sự là chủ thể
trong phát triển kinh tế, lao động, sản xuất, sáng tạo, làm giàu cho gia
đình, xã hội, xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh, xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Làm tốt công tác tôn vinh, khen thưởng tổ
chức, cá nhân thực sự xuất sắc trong các phong trào thi đua, các cuộc
vận động.
Nâng
cao chất lượng công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; hoàn
thiện thể chế, cơ chế, chính sách về thi đua, khen thưởng để tạo cơ sở
pháp lý thống nhất, đồng bộ, nhằm thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho nhân dân./.
TS. PHẠM TẤT THẮNG
Ủy viên Trung ương Đảng
Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương
____________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.6, tr.55.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.119.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.49.
(4) (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.244, 244.
(6)
Như: Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX về "Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Nghị quyết số
20-NQ/TW, ngày 28/1/2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về "Tiếp
tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/8/2008 của
Ban Chấp hành Trung ương về "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; Nghị
quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XIII về "Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”...
(7) (9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.70, 25.
(8)
Như: Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XII về "Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; Nghị
quyết số 11-NQ/TW, ngày 3/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII về "Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa”; Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII về "Tiếp tục đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới”....
(Nguồn: tapchicongsan.org.vn)