Thứ Năm, 10/10/2024
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống
Thứ Sáu, 18/3/2022 13:48'(GMT+7)

Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo định hướng Đại hội XIII của Đảng

Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ tới thăm gian hàng giới thiệu nông sản của hội viên nông dân tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam, tháng 10/2020. (Nguồn: danviet.vn)

Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ tới thăm gian hàng giới thiệu nông sản của hội viên nông dân tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam, tháng 10/2020. (Nguồn: danviet.vn)

THÀNH TỰU VÀ THÁCH THỨC VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN, NÔNG THÔN

Trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Hội Nông dân Việt Nam thực sự chủ động, tích cực phát huy vai trò trung tâm và nòng cốt trong thực hiện chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững với những thành tựu to lớn. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Nông nghiệp có bước chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành sớm hơn gần hai năm so với kế hoạch đề ra, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân”(1).

Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng khu vực nông nghiệp từ 2,8% đến 3%/năm, là tốc độ cao của thế giới. Đặc biệt, tính đa dạng về sinh thái, thổ nhưỡng, sinh học, đất đai màu mỡ, nguồn nước ngọt dồi dào, nhân lực trẻ khá phong phú, cho phép các hộ nông dân - hạt nhân của hợp tác xã cùng doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn 10 triệu héc-ta đất canh tác nông nghiệp và hơn 14 triệu héc-ta rừng để sản xuất được cả ba nhóm nông sản nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới với hàng nghìn giống cây, con, thổ sản quý hiếm. Hằng năm, Việt Nam sản xuất được trên 45 triệu tấn thóc, 5 triệu tấn ngô, 5,8 triệu tấn thịt các loại, 8 triệu tấn thủy sản cả khai thác tự nhiên và nuôi trồng; gần 20 triệu mét khối gỗ rừng trồng; sản lượng cà phê thô đứng thứ hai trên thế giới; hạt tiêu đứng đầu thế giới; cao su đứng thứ sáu trên thế giới; bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng cho nhu cầu của gần 100 triệu dân trong nước và dành phần xuất khẩu đạt trên 45 tỷ USD đến 190 nước trên thế giới. Thành tựu đó đã đưa tỷ lệ nghèo giảm đáng kể đem đến những cải thiện trong hầu hết các chỉ số về năng suất, vốn và vốn nhân lực.

Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể với yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong tâm thế Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đang đứng trước những thách thức không nhỏ. Sản xuất nông nghiệp (nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp) vẫn ở quy mô hộ nhỏ, lẻ, manh mún và thiếu liên kết nên khó cạnh tranh trên thị trường. Hiện nay, mới chỉ có 8% số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, trong đó, doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm khoảng 92%, đồng nghĩa khó có khả năng chi phối chuỗi giá trị ngành hàng và bất cập trong kết nối cung cầu nông sản. Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp được hưởng các chính sách ưu đãi về sử dụng đất, thuế nhưng thực tế các chính sách này vẫn chậm đi vào cuộc sống. Các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp đã và đang gặp không ít khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng và nhiều thủ tục liên quan đến đất đai, vay vốn, xây dựng, môi trường, vẫn còn là những điểm nghẽn làm mất nhiều thời gian. Việt Nam có đất nông nghiệp, tài nguyên nước và tài nguyên biển dồi dào với sự đa dạng sinh học phong phú là những lợi thế tự nhiên đã được sử dụng để thúc đẩy tăng trưởng, nhưng những tổn hại về môi trường ước tính ở mức từ 4% đến 8% GDP mỗi năm. Nước ta đang chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu và thiên tai xảy ra trên cả các vùng kinh tế - xã hội. Phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh là khát vọng của hội viên, nông dân Việt Nam, nhưng phần lớn hộ nông dân còn thu nhập thấp, chưa có kỹ năng nghề và chưa thích nghi với thị trường cạnh tranh, nhất là 53 dân tộc thiểu số mới có 6,2% số người lao động từ 15 tuổi trở lên và có 5,9% số người lao động nữ từ 21 tuổi trở lên được đào tạo nghề. Sau hơn 10 năm qua, các chính sách kinh tế đã đưa đến nhiều thành công, nhưng đến nay đang dần mất đi động lực khi nông hộ, nền nông nghiệp quy mô nhỏ, lẻ và manh mún đang đứng trước thách thức thiếu kết nối giữa sản xuất với thị trường và nông dân chưa được đào tạo nghề. Xã hội nông thôn đang đứng trước xu hướng biến đổi cơ cấu mạnh mẽ (giai cấp, nghề nghiệp, dân số, tộc người, tôn giáo) trên cả mặt tích cực (làm thay đổi căn bản một cách sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội của người dân) và tiêu cực (gia tăng khoảng cách giàu nghèo, sự mất bình đẳng giữa lao động chân tay và lao động trí óc, sự mất cân bằng giữa nam và nữ, sự tụt hậu của cộng đồng dân tộc thiểu số so với dân tộc đa số ở Việt Nam về trình độ học vấn và các khía cạnh liên quan đến thị trường, sự khác biệt giữa miền xuôi và miền núi, giữa thành thị và nông thôn).

TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN, NÔNG THÔN

Thứ nhất, cần quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế và đầu tư công, phát triển lành mạnh các loại thị trường, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất, thị trường tài chính tiền tệ, thị trường bất động sản, đất đai, tài nguyên. Trong đó, “thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh”(2).

Trong bước chuyển đổi này, cần thấm nhuần sâu sắc và thực hiện thật tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Công nông trí thức hóa. Trí thức công nông hóa. Nghĩa là công nông cần học tập văn hóa để nâng cao trình độ tri thức của mình, trí thức cần gần gũi công nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và kinh nghiệm của công nông”(3). Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ trương của Đại hội XIII của Đảng đòi hỏi nhìn nhận ngành nông nghiệp không chỉ là ngành sản xuất vật chất mà là ngành kinh doanh nông nghiệp - ngành kinh tế tri thức nông nghiệp và nhu cầu thị trường là mệnh lệnh cho sản xuất nông nghiệp. Từ đó, hội viên, nông dân phải được trang bị bằng kiến thức của nhà kinh doanh, được đào tạo nghề theo hướng trí thức hóa nông dân, tập trung vào việc nâng cao giá trị sản xuất các ngành hàng chủ lực có lợi thế và giá trị gia tăng cao dựa trên công nghệ mới, hiện đại về chế biến nông sản và mở rộng các ngành, nghề phi nông nghiệp ở nông thôn để đồng bào nông dân định canh, định cư bền vững tại miền quê đang sống của mình.

Đồng chí Lương Quốc Đoàn, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam thăm mô hình trồng bưởi tại xã Phúc Ninh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. (Nguồn: danviet.vn)

Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: “Cơ cấu lại kinh tế vùng, đổi mới thể chế liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng, phát huy vai trò các vùng kinh tế động lực và các đô thị lớn, quan tâm phát triển các vùng còn khó khăn, thu hẹp chênh lệch phát triển giữa các vùng”(4). Chủ trương đó yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cùng mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên phải thoát ra khỏi tư duy trong phạm vi địa giới hành chính huyện, tỉnh, thành phố; tập trung xây dựng chiến lược quốc gia, vùng, miền và chế biến nông sản; đổi mới tư duy từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh doanh nông nghiệp với vai trò “bà đỡ” của doanh nghiệp nông nghiệp với công nghệ mới, hiện đại và cơ chế, chính sách tương thích nhất để hỗ trợ, khuyến khích tập trung đất đai, đầu tư khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản gắn với thị trường. Đây là 5 vấn đề mấu chốt như trục xương sống trong chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững của nước ta.

Thứ hai, từ chủ trương “phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân thông minh”, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Chú trọng phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương”(5).

Ở nước ta, có khoảng 80% diện tích tự nhiên là nông thôn với ba phần tư là miền núi, hệ thống sông đều chạy từ phía Tây sang phía Đông, rất đa dạng về đất đai và thổ nhưỡng, về kỹ thuật canh tác và quản lý sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp của người nông dân có thể phân định theo hai trình độ sau: ở trình độ thấp, sản xuất nông nghiệp chủ yếu phục vụ cho gia đình của mỗi người nông dân, gọi là nông nghiệp thuần nông hay nông nghiệp sinh nhai; ở trình độ cao, sản xuất nông nghiệp có mức độ cơ giới hóa cao, được chuyên môn hóa trong tất cả các khâu sản xuất, bao gồm cả việc sử dụng máy móc, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, lai tạo giống, nghiên cứu các giống mới, hướng đến tăng thu nhập từ các sản phẩm nông nghiệp và sản xuất đầu ra chủ yếu phục vụ mục đích thương mại, làm hàng hóa bán ra thị trường hay xuất khẩu. Theo sự phân định đó, hiện nay hằng năm, Hội Nông dân Việt Nam có khoảng 3,5 triệu hộ hội viên đạt danh hiệu nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp, nhưng mới có khoảng 30% số hội viên biết kinh doanh nông nghiệp. Do đó, để phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, cũng như ở nhiều nước, Việt Nam phải xây dựng nền kinh tế trong đó coi nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng có vai trò làm “trụ đỡ” cho nền kinh tế với nhiều chuyên ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, diêm nghiệp.

Trong Chiến lược phát triển nông nghiệp Việt Nam, cần hướng tới mục tiêu tăng trưởng từ 3% - 3,5%/năm với giá trị xuất khẩu đến năm 2025 đạt khoảng 50 tỷ USD và xây dựng những vùng nông thôn định canh, định cư giàu có, tối thiểu 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có ít nhất 10% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu thực sự đáng sống. Vì vậy, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung nghiên cứu thể chế hóa chủ trương Đại hội XIII về “Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Đẩy mạnh tự chủ đại học. Có chính sách đột phá phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Thúc đẩy phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao. Xây dựng các cơ chế, chính sách và giải pháp để đào tạo lại lực lượng lao động phải chuyển đổi ngành nghề do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(6). Điều này giúp các chi hội trưởng chi hội nông dân nghề nghiệp và giám đốc hợp tác xã có đủ năng lực trí tuệ và kỹ năng trong thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có và nông thôn văn minh, hiện đại.

Thứ ba, Đại hội XIII của Đảng xác định, phải “Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong các chuỗi giá trị”(7) để nâng cao và thực hiện đồng bộ mối quan hệ liên kết sáu nhà (nhà nông, nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà ngân hàng, nhà khoa học, nhà phân phối) nhằm phát huy cao độ vai trò chủ thể của nông dân.

Thực hiện chủ trương này, các nhà quản lý phải phát huy vai trò của mình trong việc đáp ứng sự mong đợi của nông dân, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ chính sách và tài chính, bổ sung những gì còn thiếu để nông dân tiếp cận các kiến thức, kỹ năng sản xuất nông nghiệp và tham gia thị trường. Hiện nay, nông nghiệp không thể thiếu doanh nghiệp làm khâu kết nối sản xuất với thị trường. Thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp là tất yếu. Muốn vậy, các chính sách khuyến khích cần cụ thể, dài hạn, khơi nguồn sáng tạo, tạo được sức hấp dẫn bằng các cơ chế, chính sách thiết thực, quy định pháp lý rõ ràng về phát huy vai trò của nông hộ trong hợp tác xã và doanh nghiệp để tích tụ, tập trung đất đai, đầu tư khoa học, công nghệ, nâng cao năng suất lao động, phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn gắn với thị trường.

Cần tập trung đào tạo các kiến thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới và kỹ năng quản trị kinh doanh cho hội viên nông dân, đặc biệt lấy các nhà nông thành công trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp làm gương và làm theo phương châm “nông dân dạy nông dân” bằng phương pháp dạy học thực hành theo quy trình sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi mà các nhà khoa học của nhà nông đóng vai trò như “thư viện của nông dân”. Có hình thức tổ chức, tập hợp các nhà khoa học nông nghiệp và tiếp tục tôn vinh danh hiệu “Nhà khoa học của nhà nông” để mang đến cho hội viên, nông dân không chỉ niềm tự hào mà quan trọng hơn là những tâm đức và kiến thức quý báu của họ. Hỗ trợ hội viên, nông dân các trang thiết bị thông tin, kết nối, liên kết, hợp tác theo chuỗi sản xuất gắn với thị trường để làm tốt các khâu từ sản xuất đến thu hoạch, bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản.

Mô hình khởi nghiệp từ sản xuất nông nghiệp sạch ở tỉnh Hải Dương. (Ảnh: TTXVN)

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, xây dựng đời sống văn hóa kiểu mẫu với hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ và bảo vệ môi trường sinh thái.

Cùng với phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nhiều xu hướng tiêu cực tác động vào xã hội Việt Nam nói chung, nông thôn nói riêng, đã và đang nảy sinh những vấn đề lớn trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị tinh thần, chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc. Đó là, sự thiếu tôn trọng các mối quan hệ đạo đức truyền thống, chủ nghĩa cá nhân phát triển, coi trọng kinh tế và coi nhẹ văn hóa. Cùng với đó, cơ cấu xã hội biến đổi mạnh mẽ trên cả mặt tích cực và tiêu cực, vốn tự nhiên suy giảm liên tục và môi trường ngày càng dễ bị tổn thương bởi thiên tai và biến đối khí hậu ngày càng tăng lên.

Trước tình hình nhiệm vụ mới, Hội Nông dân Việt Nam phát huy vai trò trung tâm và nòng cốt trong vận động hội viên, nông dân xây dựng người nông dân mới giàu lòng yêu nước, đoàn kết, trách nhiệm, trọng nghĩa tình và có trình độ chuyên môn và kỹ năng sản xuất, kinh doanh nông nghiệp. Đây cũng là trọng tâm của Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu luôn ổn định, văn minh, hiện đại, giàu bản sắc văn hóa dân tộc và kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ. Cán bộ, hội viên, nông dân phải đi đầu đấu tranh ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức và từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam, nêu cao vai trò và nhiệm vụ trong cải tạo cảnh quan nông thôn và sản xuất nông sản thực phẩm an toàn, giữ vững an ninh, trật tự và môi trường xã hội nông thôn.

Cán bộ, hội viên, nông dân chủ động, tích cực tham gia sử dụng hiệu quả tài nguyên, nhất là sử dụng đất và nước tiết kiệm nhất, giám sát và kiến nghị xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường, ngăn chặn suy thoái tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và thiên tai, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp xanh và nông nghiệp tuần hoàn bằng công nghệ hiện đại, tiệm cận gần hơn với nền nông nghiệp thông minh có năng suất và chất lượng cao để thực hiện khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập cao. Hội Nông dân và người nông dân thấy rõ ràng hơn tác động của suy thoái môi trường đến người dân, mong muốn hiện thực hóa chủ trương “Thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững” theo tinh thần Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trườngChiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ, thành các hành động cụ thể và kết quả hữu hình bằng cả ba yếu tố tầm nhìn, năng lực và động lực.

Thứ năm, tiếp tục hướng dẫn hội viên, nông dân nghiệp vụ xây dựng dự án phát triển nông nghiệp hàng hóa, vay và sử dụng vốn vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Quỹ Hỗ trợ nông dân theo hình thức nhóm hộ nông dân gắn chặt với xây dựng tổ hội nông dân, chi hội nông dân nghề nghiệp và hợp tác xã kiểu mới hoạt động theo phương thức “5 tự” (tự giác, tự nguyện, tự chủ, tự quản, tự chịu trách nhiệm) và “5 cùng” (cùng ngành nghề - lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, cùng mối quan tâm, cùng có sự chia sẻ, cùng chịu trách nhiệm, cùng hưởng thụ).

Phát triển Quỹ Hỗ trợ nông dân theo văn bản số 4035/KTTH, ngày 26/7/1995 của Thủ tướng Chính phủ và Công văn số 773/CV-NH1 ngày 23/2/1995 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để hỗ trợ, giúp đỡ hội viên, nông dân xây dựng và nhân rộng các mô hình phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa theo hướng ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, làm giàu chính đáng và giảm nghèo bền vững. Hiện nay, Quỹ Hỗ trợ nông dân Việt Nam, ngoài cấp Trung ương còn có 63 Quỹ Hỗ trợ nông dân cấp tỉnh, 654 Quỹ Hỗ trợ nông dân cấp huyện đang quản lý trên 3.740 tỷ đồng và hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, Quỹ Hỗ trợ nông dân Trung ương Hội đang quản lý cho vay 135.000 tỷ đồng vốn ủy thác của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam hoạt động theo phương châm “thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ” và “giao dịch tại nhà, giải ngân tại chỗ”. Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại ngành nông nghiệp trên cơ sở phát huy tiềm năng lợi thế của từng vùng và dựa trên tăng năng suất, chất lượng nông sản và nhân lực chất lượng cao, khoa học, công nghệ và năng lực cạnh tranh; phát triển kinh tế hộ, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã kiểu mới gắn chặt với chi hội nông dân nghề nghiệp và doanh nghiệp để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm vì sức khỏe cộng đồng. 

Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Hội Nông dân các cấp tiếp tục chủ trì, phối hợp nghiên cứu đổi mới công tác định hướng về vay vốn của nông dân theo yêu cầu phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới theo hướng xanh hóa, xây dựng chi hội nông dân nghề nghiệp và tổ hội nông dân nghề nghiệp gắn với xây dựng hợp tác xã kiểu mới hoạt động theo phương thức “5 tự” và “5 cùng” để nâng cao năng lực tổ chức liên kết “sáu nhà” hay liên kết chuỗi và nâng cao nhận thức, phổ cập kiến thức mới và đẩy mạnh trí thức hóa nông dân. Chỉ có vậy, 8 triệu hộ nông dân trong đó có 3,5 triệu hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp mới phát triển được vùng sản xuất tập trung chuyên canh, thâm canh, gắn với cơ sở công nghiệp chế biến để đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta đạt được cả “ba cao” về năng suất, chất lượng, giá trị theo chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại./.

TS. Thào Xuân Sùng
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng
Nguyên Chủ tịch BCH Trung ương Hội Nông dân Việt Nam

_________________

(1) (2) (4) (5) (6) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.61-62, 124, 122, 124, 137, 124.

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.7, tr.73.

(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất