Thứ Bảy, 23/11/2024
Nghiên cứu
Thứ Hai, 26/7/2021 10:10'(GMT+7)

Quan hệ nhà nước và thị trường trong nền kinh tế: một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Ảnh minh hoạ

Ảnh minh hoạ

1. Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước và thị trường đều có vai trò và chức năng riêng. Bản thân thị trường luôn vận hành theo các quy luật vốn có khách quan và trên thực tế cơ chế thị trường là cơ chế hiệu quả trong phân bổ và khai thác các nguồn lực. Song thị trường vận động tự do luôn có xu hướng đẩy nền kinh tế vào tình trạng không ổn định và khủng hoảng. Thị trường có những khiếm khuyết cố hữu, đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để khắc phục. Tuy nhiên, nhà nước cũng có hạn chế và cũng thất bại khi can thiệp quá mức. Chính sự khiếm khuyết của thị trường và hạn chế của nhà nước cho thấy: không thể phát triển khi thiếu vắng sự can thiệp của nhà nước, cũng như không thể phát triển nếu thiếu vắng thị trường, để phát triển đòi hỏi nhà nước và thị trường cần tương tác, hỗ trợ nhau, khắc phục các khiếm khuyết. 

Mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường xuất phát từ chính nhu cầu của cả 2 bên, đó là mối quan hệ tất yếu, tương tác phụ thuộc nhau. Biểu hiện kết quả của sự tương tác giữa nhà nước và thị trường là sự phát triển của kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Việc xử lý mối quan hệ này được biểu hiện tập trung ở hệ thống thể chế phát triển.

Bản thân vai trò, chức năng của nhà nước và thị trường cũng có biến đổi, gắn liền với sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, thị trường mang tính toàn cầu, nhà nước chú trọng hơn đến vai trò điều tiết, trong đó đối tượng điều tiết cũng mở rộng, gồm cả các tập đoàn kinh tế đa quốc gia, các tổ chức quốc tế... Và điều quan trọng hơn, trongmột thị trường ngày càng toàn cầu hóa đòi hỏi việc thiết lập các quy tắc, luật chơi mớiphải tính đến sự phù hợp với các đòi hỏi của các chủ thể của toàn cầu hóa, có nghĩa rằng những quy định này không thể chỉ là sản phẩm của riêng nhà nước, mà phải tính đến sự tương thích và phù hợp với chuẩn mực phổ biến chung trong nền kinh tế toàn cầu.

2. Với chức năng kinh tế, nhà nước không chỉ là người quản lý, người ban hành các quy định, các luật chơi trên thị trường, mà còn đóng vai trò chủ thể hoạt động sản xuất (nhất là các hàng hóa và dịch vụ công), là người mua và bán các hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Như vậy lúc này quan hệ giữa nhà nước và thị trường biểu hiện ra là quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường, quan hệ giữa những người mua và người bán hàng hóa và dịch vụchịu sự tương tác, giàng buộc của các quy luật kinh tế trên thị trường, cũng như sự quản lý điều hành của nhà nước thông qua hệ thống quy định luật pháp và các công cụ quản lý. 

Xét về mục đích thực hiện các chức năng, dù xuất hiện với tư cách nào, thì quan hệ giữa nhà nước và thị trường, về bản chất, là quan hệ lợi ích. Đó là lợi ích của nhà nước và lợi ích của các chủ thể trên thị trường. Nhà nước thực hiện quản lý là hướng tới mục đích bảo đảm cho thị trường phát triển hiệu quả. Thị trường phát triển chính là cơ sở kinh tế, bảo đảm sự phát triển của nhà nước. Do vậy trong xử lý quan hệ giữa nhà nước và thị trường cần bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các chủ thể trên thị trường. Điều cần khẳng định là, sự tương tác giữa nhà nước và thị trường đều hướng đến gia tăng lợi ích, tạo ra sự tăng trưởng nói chung của các chủ thể trên thị trường. Đây chính là mặt thống nhất trong mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, thúc đẩy nhà nước và thị trường gắn bó, tương tác với nhau. 

Về bản chất, đó chính là quan hệ tương hỗ, tùy thuộc vào nhau cùng phát triển, cùng đạt được lợi ích. Mặt khác trong quá trình tương tác có sự cạnh tranh vai trò, lợi ích. Khi “phân vai” phù hợp, đúng với trình độ phát triển và năng lực xử lý thì lợi ích sẽ được thỏa mãn. Ngược lại, khi “phân vai” không đúng, nhà nước lấn át thị trường, hay thị trường lấn át nhà nước thì sẽ dẫn đến kết cục: sự quản lý của nhà nước kém hiệu quả và bản thân thị trường sẽ không thể phân bổ hợp lý, hiệu quả các nguồn lực. Đây chính là mặt mâu thuẫn trong quan hệ giữa nhà nước và thị trường.

3. Cho dù các nền kinh tế có những đặc thù khác nhau về trình độ phát triển, song đều phải giải quyết mối quan hệ nhà nước và thị trường. Việc xử lý mối quan hệ này xuất phát ngay từ chủ thuyết phát triển mà quốc gia đó lựa chọn. Đã từng có thời kỳ tồn tại mô hình kinh tế phi thị trường, nhà nước thực hiện quản lý, điều hành nền kinh tế theo chương trình, kế hoạch pháp lệnh. Và cũng từng có thời kỳ với chủ thuyết về nền kinh tế thị trường tự do, nhà nước không được khuyến khích can thiệp vào nền kinh tế. 

Cho dù nhà nước hay thị trường được chú ý, thì trong thực tiễn các quốc gia đều phải xác định, phân định vai trò nhà nước và thị trường, và điều đó được thể chế hóa, làm cơ sở cho vận hành trong thực tiễn. Hệ thống pháp luật, nhất là luật kinh tế trong các nền kinh tế thị trường vì vậy đã có sự phát triển mạnh gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thế giới. Kinh tế thị trường phát triển gắn liền sự phát triển của nhà nước pháp quyền.

4. Quan hệ nhà nước và thị trường là mối quan hệ cơ bản trong nền kinh tế thị trường. Trên bề mặt xã hội, biểu hiện dễ nhận thấy nhất của chính trị là nhà nước với cấu trúc tương ứng của nó. Về phương diện kinh tế, trong điều kiện kinh tế thị trường, biểu hiện tập trung của mặt kinh tế là hoạt động của thị trường với các quy luật kinh tế đặc trưng của nó như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu…. Do đó trong thực tiễn, ở một góc độ nhất định,việc xử lý mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị biểu hiện tập trung thành mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Bên cạnh đó, bản thân thị trường, cơ chế thị trường là phương tiện hiệu quả nhất mà loài người đã phát hiện để huy động và khai thác các nguồn lực cho phát triển, cho hiện thực hóa nền tảng kinh tế của một xã hội. Khi nhà nước xuất hiện với tư cách chủ thể có chức năng kiến tạo xây dựng nền tảng kinh tế của một xã hội, thì việc xử lý quan hệ mục tiêu và phương tiện được biểu hiện thành mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường.

Mối quan hệ nhà nước và thị trường còn được thể hiện ra là mối quan hệ giữa chủ thể với khách thể, khi nhà nước đóng vai trò là chủ thể quản lý nền kinh tế thị trường; hay đó là mối quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế, khi nhà nước xuất hiện với tư cách là một chủ thể trên thị trường, sẽ quan hệ bình đẳng với các chủ thể khác theo luật định. Quan hệ nhà nước và thị trường cũng phản ánh mối quan hệ giữa cái chủ quan với khách quan, bởi lẽ thị trường luôn vận động theo các quy luật khách quan và chịu sự điều tiết của nhà nước, lúc đó nhà nước xuất hiện là các quy định, luật lệ, và các công cụ điều tiết khác. Các công cụ này là sản phẩm chủ quan để định hướng thị trường, tạo luật chơi cho thị trường. Thị trường sẽ hiệu quả khi các công cụ này hợp lý, không làm méo mó thị trường. 

5. Mối quan hệ nhà nước và thị trường là mối quan tâm xuyên suốt chiều dài phát triển của nền kinh tế thị trường ở các quốc gia. Giải quyết hợp lý mối quan hệ nhà nước và thị trường là chìa khóa thành công của các nền kinh tế. Tuy nhiên, không có khuôn mẫu chung cho việc xử lý mối quan hệ này, mà ở mỗi nền kinh tế mức độ tham gia của nhà nước hay mức độ quyết định của thị trường là rất đa dạng tùy thuộc vào trình độ phát triển, quan niệm về mô hình vận hành, tập quán truyền thốnglịch sử -văn hóa... 

Thực tiễn lịch sử cho thấy, sự thất bại của không ít nền kinh tế là do tuyệt đối hóa nhà nước hay tuyệt đối hóa thị trường. Mô hình chung có tính phổ biến hiện nay là phát triển nền kinh tế hỗn hợp mà ở đó vai trò nhà nước và vai trò thị trường đều được phát huy, bổ khuyết cho nhau.

Trong các nền kinh tế thị trường phát triển phương Tây, nhà nước được chú ý nhiều hơn trong vai trò là người dẫn dắt, điều chỉnh. Vai trò này đặc biệt được chú ý trong các thời kỳ khủng hoảng. Nhiều quốc gia đã đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa, hoặc chuyển giao công - tư, nhà nước hầu như không triển khai đầu tư kinh doanh trực tiếp, bản thân các dịch vụ công cũng được chuyển cho tư nhân tham gia cung cấp. Với các công cụ điều tiết, nhất là các chính sách tài chính - tiền tệ, thuế, ngân sách, xây dựng các chiến lược, quy hoạch dài hạn... để điều chỉnh, định hướng nền kinh tế. 

Trong các nền kinh tế Đông Á, trong thời kỳ đầu nhà nước can thiệp khá mạnh vào nền kinh tế, thực sự là động lực thúc đẩy và định hướng phát triển. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây quá trình tư nhân hóa và phân quyền, giải điều tiết được đẩy mạnh. Vai trò nhà nước tuy vẫn được nhấn mạnh hơn so với các nền kinh tế Âu-Mỹ, song nhà nước và thị trường có sự kết hợp chặt chẽ, nhà nước chú ý hơn trong việc tạo lập hành lang pháp lý, xây dựng các quy tắc, tạo lập cơ sở hạ tầng, chú ý các chính sách an ninh quốc gia và an ninh con người. Đó là kinh nghiệm rất đáng tham khảo với Việt Nam. 

Trong nền kinh tế thị trường XHCN Trung Quốc có những nét riêng trong xử lý mối quan hệ nhà nước và thị trường. Từ chú trọng vai trò nhà nước, Trung Quốc chuyển dần sang kết hợp nhà nước và thị trường, thừa nhận vai trò cơ bản thị trường, và thực tế phát triển của Trung Quốc đã đưa đến sự điều chỉnh, hay thừa nhận vai trò quyết định của thị trường trong phân bổ nguồn lực. Tuy nhiên, trong nền kinh tế Trung Quốc khu vực kinh tế quốc doanh (quốc hữu) vẫn được chú ý với vai trò chủ đạo. Cùng với phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước, nhà nước được chú trọng trong vai trò điều tiết vĩ mô, trong xây dựng các thể chế thị trường và môi trường cho doanh nghiệp phát triển.

6. Ở Việt Nam, Trước thời kỳ đổi mới dường như chúng ta chưa thực sự chú ý đến mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Đã có giai đoạn chúng ta nhấn mạnh đến vai trò nhà nước, nhà nước có vị trí tuyệt đối, thông qua nhà nước để giải quyết các vấn đề liên quan đến xã hội, đến cuộc sống của người dân. Thị trường chỉ xem như nơi diễn ra các hoạt động mua bán theo mục tiêu và kế hoạch định sẵn (thậm chí không thừa nhận vai trò thị trường), dẫn đến hình thành các thị trường không chính thức (không được phép). Với việc đổi mới, chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước, tuy chưa trực tiếp khẳng định mối quan hệgiữanhà nướcvà thị trường, nhưng trong đường lối, chủ trương phát triển kinh tế đều toát lên sự gắn bó giữa nhà nước và thị trường. 

Qua hơn 30 năm đổi mới, nhận thứccủa Đảng, Nhà nước ta về mối quan hệ nhà nước và thị trường ngày một rõ hơn. 

Thứ nhất, xem quan hệ nhà nướcvà thị trường là một trong những mối quan hệ lớn, quan trọng và cần xác định rõvà thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của nhà nước và thị trường phù hợp với kinh tế thị trường. Thị trường có khiếm khuyết, cần phải có sự can thiệp của Nhà nước, nhưng thị trường chính là đối tượng và nguồn thông tin cho nhà nước hình thành các chính sách và thực hiện chức năng điều tiết để bảo đảm môi trường tăng trưởng. 

Thứ hai, nhận thức ngày càng cụ thể chức năng của nhà nước trong quan hệ với thị trường.

Nhà nước Việt Nam đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; không can thiệp trực tiếp, mà sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực củanhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, không làm méo mó thị trường, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường.

Thứ ba, xác định rõ vai trò thị trường. Thống nhất khẳng định thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Việc vận dụng cơ chế thị trường phải đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực, nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế. Và để thị trường phát huy hiệu quả cần phải tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. 

 Thứ tư, xác định rõ tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với giải quyết các vấn đề xã hội. Kết hợp chặt chẽ các mục tiêu chính sách kinh tế với các mục tiêu chính sách xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững. 

Các vấn đề xã hội không phải là thụ động, đi sau kinh tế, mà giải quyết tốt các vấn đề xã hội cũng chính là điều kiện, là động lực cho tăng trưởng.

Thứ năm, để giải quyết tốt mối quan hệgiữanhà nướcvà thị trường, Đảng ta cũng chỉ rõ cần phải đẩy mạnh quá trình thể chế hóa vai trò, chức năng của các thành tố và mối quan hệ. Và không chỉ phải gắn bó giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, mà cần phải giải quyết hài hòa các lợi ích nhà nước, doanh nghiệp và người dân, mới giải quyết tốt quan hệgiữanhà nướcvà thị trường. Tại Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII, Đảng ta chỉ rõ không chỉ nhấn quan hệ nhà nước và thị trường mà còn nhấn đến thành tố xã hội trong quan hệ này và yêu cầu xác định rõvà thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường. Quan điểm này được tái khẳng định tại Đại hội XIII của Đảng.

7. Trong điều hành thực tiễn, mối quan hệ nhà nước và thị trường ở Việt Nam đã được quan tâm, vai trò nhà nước cũng như vai trò của thị trường đã thể hiện ngày một rõ và hiệu quả. 

Một là, Nhà nước đã thực sự chú ý đến vai trò "bà đỡ" cho thị trường hình thành và phát triểnĐã thể chế hóa và tạo điều kiện cho quá trình hình thành và phát triển các loại thị trường, nên các thị trường có sự phát triển mạnh về quy mô và chất lượng, các thị trường mới được hình thành; đã thực sự chủ động và tích cực hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực, quy mô giao dịch tăng cao. Đồng thời “xã hội hoá” một số nhiệm vụ của Nhà nước; “mở” ra nhiều ngành, lĩnh vực trước đây là độc quyền của Nhà nước; Nhà nước rút lui dần khỏi lĩnh vực kinh doanh không cần thiết và “nhường lại” cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước và các doanh nghiệp xã hội nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội. 

Hai là, đã hình thành thể chế về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước, bao gồm: 1) Phân biệt chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở; 2) Nhà nước “từ bỏ” hoạt động quản trị và can thiệptrực tiếpvào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà tập trung thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế; 3) Tách bạch chức năng quản lý kinh tế vĩ mô và chức năng chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, từng bước xoá bỏ “bộ chủ quản”. 

Ba là, trong điều hành quản lý vĩ môNhà nước đã dần hạn chế tối đa mệnh lệnh hành chính để các hoạt động của thị trường diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật thị trường, đảm bảo nguyên tắc thị trường “tự điều chỉnh”, đồng thời tăng cường quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN). Lấy thị trường làm cơ sở chủ yếu để phân bổ các nguồn lực kinh tế kết hợp với điều tiết vĩ mô của nhà nước bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và bằng các nguồn lực, các chính sách hướng quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống kinh doanh vào những lĩnh vực và địa bàn cần thiết. Thể chế định giá, nhất là giá cả hàng hóa, dịch vụ, đã được tự do hóa. 

Bốn là, vai trò, chức năng của thị trường cũng càng được coi trọng, thể hiện rõ nét ở những điểm sau: 1) Thị trường đã thực sự từng bước là căn cứ để Nhà nước định hướng phát triển kinh tế đất nước thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội. 2) Thị trường/doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia cung ứng các dịch vụ xã hội. 3) Thị trường là căn cứ để tạo một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và vững chắc, không chỉ là một hệ thống luật lệ và quy định, mà còn bao hàm các định chế cần thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp, bao gồm toà án và các cơ quan cưỡng chế thi hành luật. 4) Thị trườngtham gia kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế, góp phần tạo ra sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế.  

Năm là, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.Bản thân doanh nghiệp nhà nước cũng phải vận hành, hạch toán theo cơ chế thị trường. Đáng chú ý là việc tách chức năng đại diện chủ sở hữu với chức năng quản lý chung của Nhà nước thông qua thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Chính phủ cũng đã đẩy mạnh cải cách, cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành góp phần đưa các doanh nghiệp nhà nước được tập trung nhiều hơn vào những lĩnh vực then chốt, quốc phòng, an ninh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ công thiết yếu. 

Sáu là, khu vực tư nhân có sự phát triển mạnh trong các lĩnh vực pháp luật không cấm, và tham gia cung ứng dịch vụ công. Đây là một trong những thành công của quá trình xử lý quan hệ nhà nước và thị trường trong những năm vừa qua. Trên thực tế vai trò kinh tế tư nhân trong nền kinh tế ngày càng được thừa nhận và có đóng góp ngày càng lớn xét trên tỷ lệ nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế, đóng góp thu ngân sách, tạo việc làm… Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh với nhiều loại hình đa dạng, có những doanh nghiệp, tập đoàn lớn có khả năng cạnh tranh trên thị trường. 

Bảy là, phát triển các doanh nghiệp xã hội và các hội tự quản.Phát triển doanh nghiệp xã hội (DNXH) là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Từ khi khái niệm DNXH được biết đến vào những năm 2008 đến nay, DNXH đã phát triển đa dạng, có sức ảnh hưởng đến chính sách của Nhà nước và lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng. Bên cạnh các DNXH, với việc đẩy mạnh thực hiện dân chủ hóa cơ sở, trong những năm qua mô hình tự quản khu dân cư đã phát triển khá đa dạng ở nhiều địa phương như: tuyến đường tự quản, tự quản bảo vệ môi trường, tự quản an ninh trật tự… đã góp phần nâng cao đời sống người dân. Đây là hướng quan trọng góp phần nâng cao vai trò thành tố xã hội trong tạo lập môi trường tăng trưởng, giám sát, bổ sung cho những khuyến khuyết của thị trường trong những năm qua

Tám là, trong quá trình xây dựng cũng như thực hiện chủ trương, chính sách đã chú ý gắn bó hơn chức năng, nhiệm vụ của Nhà nướcvà thị trường, tức là có sự “phân vai” ngay trong quá trình xây dựng chủ trương, chính sách, do vậy tính khả thi chính sách cũng cao hơn, có sự đồng thuận của người dân. Sự tham gia của doanh nghiệp và xã hội vào quá trình định hình chính sách ngày một rõ và hiệu quả.

8. Việc xử lý quan hệ nhà nước và thị trường ở nước ta trong thời gian qua đã có kết quả quan trọng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên trong quá trình đó cũng còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết. Cụ thể là: 

Thứ nhất, duy trì khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm quy mô lớn, kém hiệu quả hoạt động, chưa xác định rõ, cụ thể những lĩnh vực và khâu then chốt Nhà nước cần nắm giữ. Khu vực sự nghiệp công chiếm quy mô lớn, chưa vận hành theo kinh tế thị trường, còn bao cấp lớn từ Nhà nước. Nguồn lực nhà nước nắm giữ, phân bổ, đầu tư chưa thực sự tuân theo quy luật của kinh tế thị trường. 

Thứ hai, Nhà nước còn hạn chế về năng lực kiến tạo phát triển, dẫn dắt thị trường, nhất là kiến tạo phát triển các yếu tố thị trường hoặc những thị trường đặc biệt mà tư nhân không hoặc chưa tham gia. Đầu tư công của Nhà nước chưa đủ sức “làm mồi”, “dẫn dắt” cho đầu tư của tư nhân trên thị trường. Chưa tách chức năng dịch vụ công khỏi quảnlý hành chính nhà nước, tình trạng quan liêu còn nặng nề. Hệ thống cung ứng dịch vụ công chưa thật sự trở thành khách hàng phục vụ doanh nghiệp và người dân. 

Thứ ba, công cụ pháp luật chưa ổn định, Nhà nước chưa thật sự trở thành “trọng tài” cho các chủ thể kinh tế. Chính sách tài khóa, tiền tệ, tỷ giá phối hợp thiếu linh hoạt; thiếu tính độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước với hệ thống hành chính. Lực lượng vật chất của Nhà nước can thiệp vào thị trường còn phân tán, lãng phí, vừa chưa theo quy hoạch, kế hoạch, vừa chưa theo quy luật của thị trường. Hệ thống dịch vụ công chưa phân tách các trách nhiệm tổ chức cung ứng, chi trả phí và quản lý để tiến hành đổi mới hiệu quả, mở rộng cơ hội cho tư nhân tham gia. 

Thứ tư, chưa thật sự tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa khu vực công và khu vực tư, giữa các tổ chức kinh tế trong khu vực tư, trong tiếp cận các nguồn lực công (đất đai, tín dụng, tài nguyên khác…). Chưa giải phóng triệt để tiềm lực, thế mạnh của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế, thiếu các doanh nghiệp tư nhân đủ mạnh để vươn ra hội nhập quốc tế. Hợp tác công - tư bị biến dạng, nhiều nguồn lực nhà nước rơi vào “sân sau” thông qua hợp tác công tư. 

Thứ năm, chưa thực sự đặt doanh nghiệp nhà nước với tư cách là nhà đầu tư bình đẳng trên thị trường. Nguồn lực nhà nước đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch chưa hoàn toàn tôn trọng quy luật thị trường, bị lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm chi phối, dẫn tới hiệu quả thấp. Nhìn tổng thể toàn xã hội nguồn lực được huy động, phân bổ chưa tôn trọng đầy đủ quy luật của kinh tế thị trường (giá trị, cung cầu, cạnh tranh). 

Thứ sáu, phân phối lần đầu của thị trường và phân phối lại của Nhà nước chưa được thiết kế liên thông nhằm bảo đảm phát huy động lực của thị trường và bảo đảm phúc lợi cho người dân. Lồng ghép chính sách xã hội thông qua bao cấp giá dịch vụ và tổ chức hệ thống cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cồng kềnh, kém hiệu quả, tạo gánh nặng bao cấp ngân sách và biên chế.

9. Để giải quyết tốt mối quan hệgiNhà nước và thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, đòi hỏi phải được đặt trong tổng thể quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và đây là quá trình thường xuyên, lâu dài, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Quá trình này đòi hỏi phải tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường và đi liền với phát huy vai trò kiến tạo phát triển của Nhà nước. Và tất nhiên trong quá trình giải quyết mối quan hệ này phải gắn từng bước với các giai đoạn phát triển của nền kinh tế dân tộc, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tối đa hóa lợi ích quốc gia dân tộc.

Trong quá trình xử lý quan hệ cần nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước, Nhà nước chỉ làm những cái gì mà thị trường không làm hoặc chưa làm. Trên thực tế, Nhà nước và thị trường không đối lập mà bổ sung cho nhau, hiệu quả trên thực tế chính là thước đo tương tác phù hợp giữa Nhà nước và thị trường. Trong quá trình tương tác Nhà nước và thị trường không chỉ nâng cao năng lực quản trị nhà nước, tạo sự phát triển đầy đủ, động bộ của thị trường mà cần phải có sự tham gia của khu vực thứ ba” - khu vực các tổ chức phi lợi nhuận, chúng vừa hỗ trợ, bổ sung cho Nhà nước và thị trường, đồng thời chúng cũng giám sát cả Nhà nước và thị trường.

Trong định hướng chính sách cần tập trung vào một số hướng cơ bản sau: 

Một là, nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ kiến tạo phát triển của Nhà nước.

Hai là,thực hiện cơ chế giá do thị trường quyết định, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ nguồn lực, đồng thời Nhà nước phải đổi mới phương thức sử dụng các cộng cụ quản lý để điều tiết các nguồn lực theo các kế hoạch và quy hoạch phù hợp với có chế thị trường.

Ba là, thúc đẩy hình thành sở hữu xã hội và hoàn thiện thể chế, cơ chế, bảo hộ quyền tài sản của công dân để tài sản giao dịch thông suốt trên thị thị trường. Thể chế hóa đầy đủ, cụ thể quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai, tài nguyên, khóng sản... phù hợp với cơ chế thị trường. Tiếp tục đổi mới việc đăng ký, chứng nhận quyền sử dụng đất, bảo hộ quyền tài sản hình thành từ quyền sử dụng đất. Triển khai áp dụng mô hình quản lý vốn hiện đại, tách rời giữa quyền quản lý kinh doanh vốn nhà nước với quản lý hành chính nhà nước của các bộ, ngành.

Bốn là, xác lập quyền bình đẳng của các chủ thể trên thị trường, thúc đẩy tự do kinh doanh, chống độc quyền.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển động bộ, vận hành thông suốt của các thị trường trên cơ sở tập trung vào hoàn thiện các phương thức giao dịch hàng hóa - dịch vụ hiện đại, đổi mới chính sách đất đai để thúc đẩy thị trường quyền sử dụng đất, lập sàn giao dịch đất đai. Đổi mới hệ thống ngân hành theo các chuẩn mực quản trị hiện đại trên thế giới. Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng, thúc đẩy phát triển thị trường lao động thông qua hình thành sàn giao dịch việc làm gắn liền với xóa bỏ cơ chế quản lý hộ khẩu để thúc đẩy dịch chuyển lao động. 

Sáu là, bảo đảm công bằng trong phân phối nguồn lực phát triển để các chủ thể của kinh tế thị trường có điều kiện phát huy cao nhất năng lực làm giàu cho mình và đóng góp cho xã hội. Có cơ chế khuyến khích thúc đẩy kinh tế chia sẻ và trách nhiệm xã hội trong nội bộ các doanh nghiệp, bảo đảm phân phối lại ngay trong nội bộ doanh nghiệp gắn với xây dựng văn hóa kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện đại.  Hoàn thiện công cụ thuế tác động, điều tiết doanh nghiệp gia tăng trách nhiệm xã hội. Có chính sách khuyến khích phát triển DNXH hội hướng tới phân khúc thị trường lao động cho người nghèo, người yếu thế, người gặp hoàn cảnh rủi ro dựa vào sự vận dụng nguyên tắc của thị trường và đề cao giá trị nhân đạo, nhân văn. 

Bảy là, phát huy vai trò của thành tố xã hội bổ sung cho giới hạn của Nhà nước, góp phần khắc phục khuyết tật của thị trường, kiểm soát các nhóm lợi ích tác động gây méo mó quy luật của nền kinh tế thị trường và trục lợi chính sách./.

PGS. TS. Vũ Văn Hà
Đại học Đại Nam

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất