Kịch bản của tác giả Phạm Văn Quý khi được trao vào tay của vị
đạo diễn "lão làng" - NSND Doãn Hoàng Giang đã trở thành bản anh hùng
ca hoành tráng ngay trên sân khấu, tái hiện một giai đoạn lịch sử hào
hùng của những người con Hà Nội trong 60 ngày đêm bảo vệ Thủ đô với
tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", mở đầu những ngày Toàn
quốc kháng chiến chống thực dân Pháp trong mùa đông năm 1946. Một đề
tài không hề lạ song đã được vị đạo diễn tài năng ngấp nghé tuổi 80,
bằng kinh nghiệm và sức sáng tạo, thổi vào đó một luồng sinh khí mới,
với ý tưởng dù dựng vở về chiến tranh cũng vẫn phải lột tả đến tận cùng
nét hào hoa, say đắm của người Hà Nội. Bởi đây không phải là cuộc
chiến của một địa phương nào khác mà là của Hà Nội, trái tim của đất
nước, nơi mà người ta vẫn gọi là "Thăng Long phi chiến địa". Làm thế
nào để thể hiện được hết nét đẹp đó trong hoàn cảnh chiến tranh, ấy vừa
là "đất" để đạo diễn, diễn viên thể hiện tài năng, lại vừa là thách
thức không dễ vượt qua, nhất là khi thời điểm đó đã quá xa đối với thế
hệ diễn viên hôm nay.
Ðiều này cũng giải thích tại sao NSND Doãn Hoàng Giang đã đầy tự tin
khi đưa những thủ pháp điện ảnh lên sân khấu. Các sự việc, hành động
nối tiếp nhau được dàn dựng một cách dồn dập, liên tục, không ngừng,
đặc biệt hạn chế việc chuyển cảnh thường thấy như trong kịch. Người xem
như bị cuốn vào một không khí khẩn trương, sục sôi của những ngày toàn
quốc kháng chiến. Ngay từ đầu vở diễn, vẻ lãng mạn của người Hà Nội
cũng như sự tàn khốc của chiến tranh đã được lột tả sống động trong
phân cảnh đối lập giữa một bên là tiếng nhạc dìu dặt của khúc Thiên
thai, với một bên là tiếng súng nổ vang trời. Nếu như không có chiến
tranh, Hà Nội sẽ mãi thanh bình, lãng mạn như những bản Thiên thai, Suối
mơ... Nhưng khi súng đạn vang lên, người Hà Nội sẽ tự biến sự lãng mạn
ấy thành sức mạnh chiến đấu và niềm tự hào dân tộc. Mang tâm hồn phóng
khoáng, hào hoa của người Hà thành, một cô gái làng hoa Ngọc Hà với
gánh hoa của mình đã biến lũy chiến thành "lũy hoa". Vì yêu sự lãng mạn
nên trong lúc phẫu thuật gắp đạn ra khỏi cánh tay, chịu bao đau đớn vì
không có thuốc mê, người đội trưởng đội tự vệ vẫn muốn nghe người bạn
thân hát trong tiếng đàn ghi-ta và cùng nhau ngân nga khúc Bến xuân.
Việc sử dụng những ca khúc của cố nhạc sĩ Văn Cao, người vừa thành công
với những ca khúc cách mạng, vừa ghi dấu ấn đậm nét với những bản tình
ca chính là sự lựa chọn tinh tế khi góp phần làm toát lên vẻ đẹp vừa
anh dũng, vừa lịch lãm, bay bổng của người Hà Nội.
Bên cạnh đó, vở diễn còn mang đến sự khác biệt lớn khi huy động tới
lực lượng hùng hậu gần 100 nghệ sĩ của Nhà hát Kịch Hà Nội, nhưng không
hề có nhân vật chính, có chăng chỉ là sự nhấn nhá hơn ở vài ba nhân
vật. Những người con Hà Nội, họ có thể là một anh kỹ sư xây dựng, một
cô nữ sinh Hà thành, một bác sĩ trí thức, một nhạc sĩ quán ba, một võ
sĩ đấm bốc, một cô gái bán hoa, hay một tay anh chị giang hồ, một ả
đào... khi dấn thân vào cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô thân yêu, họ đều
đứng chung một chiến tuyến, không phân biệt đẳng cấp sang hèn mà chỉ
còn lại một tình yêu chung dành cho Hà Nội và vì Hà Nội. Ðối lập giữa
một bộ phận nhút nhát, yếu hèn là thái độ nhập cuộc của phần lớn những
người con Hà Nội quyết "sống mãi với Thủ đô". Vở diễn không đi sâu khai
thác chuyện đời tư của bất kỳ nhân vật nào nhưng người ta vẫn thấy
thấp thoáng trong đó những số phận, những cảnh đời. Ðó là thân phận của
một người giúp việc sớm thành góa phụ phải đi làm giúp việc để nuôi
con, một cô gái làng chơi đến khi ra chiến trường còn băn khoăn về
những người chung quanh sẽ khinh rẻ mình, một giang hồ chợ Ðồng Xuân
vốn chỉ quen ăn trộm, đánh đấm... Chính Cách mạng đã mang đến ánh sáng
và cho họ hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn. Ðúng như chia sẻ của
đạo diễn Doãn Hoàng Giang: "Người Hà Nội sẽ thấy tự hào về mình hơn qua
tác phẩm".
Cận kề ranh giới giữa sự sống và cái chết, những người con Hà Nội vẫn
không ngừng lãng mạn và mơ mộng và có lẽ đó là cái "chất" riêng của
người Hà Nội đã được thể hiện thành công trong tác phẩm. Vở diễn không
thay đổi nhiều bối cảnh sân khấu mà sử dụng nhiều đại cảnh, tuy vậy
không hề làm loãng vở kịch mà trái lại còn tạo thêm nhiều hiệu ứng. Bối
cảnh sân khấu xuyên suốt trong tác phẩm là cảnh những bức tường Hà Nội
bị đục thủng và cắm đầy hoa, vừa đau thương vừa đầy chất thơ, tái hiện
lại hình ảnh năm 1946, các ngôi nhà Hà Nội được đục thông sang nhau để
dễ ẩn nấp, dễ di chuyển và chiến đấu. Trên phông lớn sau sân khấu, chữ
"Ðộc lập - Tự do" lúc nào cũng được rọi đèn sáng rực giữa nền trời là
hình ảnh đại diện cho khát vọng lớn lao, mạnh mẽ của người Hà Nội, cũng
là của toàn thể người dân Việt Nam về một nền hòa bình, độc lập dân
tộc.
Ðạo diễn Doãn Hoàng Giang chia sẻ: Khi cuộc chiến năm 1946 diễn ra ở
Hà Nội, ông mới chỉ là cậu bé bảy, tám tuổi nhưng không khí sôi sục
lúc đó chưa bao giờ ông quên. Không bài hát, không sự kiện nào khi đó
mà ông không nhớ. Ðây là một vở diễn tái hiện lại chân thực một giai
đoạn lịch sử, được thực hiện nhân kỷ niệm 60 năm Ngày giải phóng Thủ
đô, nhưng lại được dàn dựng trong bối cảnh nhân dân cả nước đồng lòng
quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Ðó cũng là tình cảm, tâm thế của
các diễn viên tham gia diễn xuất. Hoàn cảnh lịch sử có thể khác nhau
nhưng lòng yêu nước là đồng nhất, là cảm hứng xuyên suốt để những diễn
viên trẻ thể hiện thành công vai diễn của họ.