(TG) - Một trong những giải pháp then chốt nhằm ngăn chặn tình trạng mất cân
bằng giới tính khi sinh là phải tăng cường công tác bình đẳng giới và
nâng cao vị thế của phụ nữ và trẻ em gái; đẩy mạnh tuyên truyền, vận
động thay đổi nhận thức của người dân, phát huy hơn nữa sự tham gia của
nam giới vì bình đẳng giới.
Ngày 8/10, tại Lạng Sơn, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình
(DS-KHHGĐ) phối hợp UBND tỉnh Lạng Sơn tổ chức Lễ mít tinh cổ động, diễu
hành hưởng ứng Ngày Quốc tế Trẻ em gái 11/10/2019 với chủ đề “Thúc đẩy
bình đẳng giới góp phần giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh”.
Phát biểu tại Lễ mít tinh, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ nhấn mạnh: Giữa bất bình đẳng giới và tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta có mối quan hệ quyết định đến nhau. Bất bình đẳng giới là nguyên nhân làm gia tăng tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, ngược lại mất cân bằng giới tính sẽ làm sâu sắc thêm vấn đề bất bình đẳng giới.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đó là hành vi lựa chọn giới tính thai nhi của các cặp vợ chồng. Mong muốn có con trai hiện nay không chỉ dừng ở biểu hiện tâm lý mà đã thể hiện thành hành động tìm kiếm con trai. Các quan niệm xã hội và tín ngưỡng đòi hỏi con trai phải gánh vác việc thờ cúng tổ tiên; con trai giúp củng cố địa vị của cha mẹ trong xã hội; đứa con sinh ra phải mang họ của bố; người chồng thường là chủ hộ trong gia đình, có quyền quyết định những việc lớn. Theo phong tục ở nhiều địa phương, chỉ có con trai được thừa kế tài sản của cha mẹ, vị thế của người phụ nữ không được coi trọng, chính sách sinh ít con kéo dài...
Tất cả những điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân, các cặp vợ chồng, gia đình và dòng họ. Văn hóa - xã hội phát triển ngày càng đa dạng, phong phú, nhiều phong tục cũ không còn phù hợp với xã hội hiện đại, tư tưởng bất bình đẳng giới cần phải được xóa bỏ.
Vì vậy, một trong những giải pháp then chốt nhằm ngăn chặn tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh là phải tăng cường công tác bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ và trẻ em gái; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động thay đổi nhận thức của người dân, phát huy hơn nữa sự tham gia của nam giới vì bình đẳng giới. Cần có những hành động thiết thực bảo vệ trẻ em để các em sinh ra được bình đẳng, dù là trai hay gái.
Mất cân bằng giới tính khi sinh có xu hướng tiếp tục tăng và lan rộng, cả nông thôn, thành thị và tại tất cả các vùng miền. Cả nước đã có 55/63 tỉnh, thành phố có tỷ số giới tính khi sinh cao trên 108/100. Riêng tại tỉnh Lạng Sơn, tỷ số giới tính khi sinh là 116,3 năm 2018, cao hơn mức bình quân chung của cả nước.
Nếu không có những biện pháp can thiệp kịp thời, dự báo đến năm 2050, Việt Nam sẽ thiếu từ 2,3 đến 4,3 triệu phụ nữ. Mất cân bằng giới tính có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và ảnh hưởng tới cuộc sống của phụ nữ, nam giới, gia đình và cộng đồng.
Thiết thực hưởng ứng Ngày quốc tế trẻ em gái 11/10 với chủ đề “Thúc đẩy bình đẳng giới góp phần giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh”, lãnh đạo Tổng cục DS-KHHGĐ mong nhận được sự quan tâm, hỗ trợ vào cuộc tích cực của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể từ trung ương đến cơ sở và mọi tầng lớp nhân dân, nhằm đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và chuyển đổi hành vi trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới. Qua đó can thiệp một cách có hiệu quả, góp phần kiểm soát và giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trong thời gian tới. Đồng thời, thúc đẩy mạnh mẽ việc thực thi nghiêm minh pháp luật về giải quyết mất cân bằng giới tính khi sinh, nghiêm cấm các hành vi hướng dẫn, tư vấn, cung cấp dịch vụ lựa chọn, xác định giới tính trước khi sinh trong các cơ sở y tế, tại cộng đồng và trong toàn xã hội./.
Cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 1999 cho thấy, tỷ số giới
tính khi sinh ở Việt Nam thời điểm đó là 107 bé trai/100 bé gái, 10 năm sau, tại cuộc Tổng điều
tra Dân số và Nhà ở năm 2009, tỷ số này là 110,5 và tăng lên 113,8 năm
2013. Cho đến nay, tỷ số này vẫn dao động xung quanh ngưỡng 114,8. |
Hà Ánh