Chủ Nhật, 6/10/2024
Đời sống
Thứ Ba, 1/2/2011 15:10'(GMT+7)

Tết của đồng bào dân tộc thiểu số và những phong tục lạ...

 

Người Lô Lô gọi gia súc dậy

Người Lô Lô cư trú chủ yếu ở tỉnh Hà Giang và một số ít ở tỉnh Cao Bằng. Họ đón Tết khá giống người Kinh. Từ ngày 29, 30 Tết, nhà đã đều dọn dẹp sạch sẽ, chuẩn bị lợn gà, bánh trái để cúng tổ tiên. Chiều 30 Tết, các gia đình cũng sum họp đông đủ bên mâm cơm cuối năm, cung kính tổ tiên và chúc phúc cho các thành viên trong gia đình.

Tuy nhiên, người Lô Lô cũng có những phong tục riêng. Họ đón Giao thừa bằng cách đánh thức tất cả gia súc dậy... cùng chung vui. Đồng thời, những đồ dùng trong gia đình và cây cối trong vườn đều được dán giấy màu vàng hay màu bạc để chúng nghỉ ngơi trong 3 ngày Tết. Không ai được đụng đến hoặc di chuyển đi chỗ khác.

Từ trẻ đến già đều thức thâu đêm suốt sáng hoà vào không khí nhộn nhịp chung của cả dân làng...

Người H'Mông và tục vỗ mông

Người H'Mông có một hệ lịch riêng, vì vậy Tết của họ vào khoảng cuối tháng 11 đầu tháng 12 Âm lịch. Tuy nhiên, ngày nay, đa số đồng bào H'Mông đã ăn Tết Nguyên đán như người Kinh, chỉ trừ một bộ phận nhỏ người H'Mông ở Mộc Châu vẫn duy trì song song Tết theo hệ lịch riêng của họ.

Như người Kinh, khoảng 25, 26 tháng Chạp, mọi người bắt đầu nghỉ ngơi chuẩn bị đón Tết. Với người H'Mông, 3 món không thể thiếu trong mâm cỗ ngày Tết là thịt, rượu và bánh ngô. Tuy nhiên, họ không đón Giao thừa như người Kinh.

Tối hoặc nửa đêm 30, mỗi nhà đều phải làm lễ cúng "ma nhà" (tổ tiên) bằng một con lợn sống, một con gà còn sống (phải là gà trống tơ). Sau khi cúng xong, đem lợn và gà đi giết thịt, rồi cúng một mâm thịt chín. Sau đó mới được ăn và uống rượu đến khi nghe thấy tiếng gà gáy đầu tiên. Đối với họ, tiếng gà gáy sáng sớm của mùng Một mới đánh dấu một năm mới bắt đầu.

Bên cạnh đó, lễ hội Sải Sán hay Gầu Tào (hội cầu phúc) trong ngày Tết là lễ hội lớn nhất trong năm và thể hiện nét văn hóa đặc trưng không thể thiếu của người H'Mông. Lễ hội này thường diễn ra vào ngày mùng Hai của năm mới nhằm tạ ơn tổ tiên về mùa màng, súc vật, cầu cho con cháu đầy đàn.

Trong lễ hội, diễn ra rất nhiều hoạt động văn hoá như ném pao - một trong những trò người H'Mông rất thích, múa khèn, múa ô, hát ống, hát giao duyên... Đặc biệt vào ngày Tết, thanh niên trai gái người H'Mông thường hay tụ tập dưới chân núi để vui Xuân. Khi người con trai ưa người con gái nào đó, sẽ vỗ vào mông cô ta và dắt tay tìm chỗ tâm tình thâu đêm suốt sáng.

Người Cơ Tu cúng thần lúa

Người Cơ Tu thường ăn Tết sau vụ thu hoạch, họ mở hội vui chơi trong ngày lễ cúng thần lúa gọi là Tết Pro-giê-râm, đây là lễ lớn nhất trong năm.

Trước Tết một tuần, dân làng thường tổ chức đi bắt cá tập thể ở những con sông lớn. Họ ngâm các loại trái, vỏ, rễ cây làm cho cá bị say tự động nổi lên mặt nước rồi tha hồ bắt. Thực phẩm của người Cơ Tu trong ngày Tết chủ yếu là món ăn do đồng bào tự tay làm ra như nếp, lúa, sắn, ngô... Rượu cần và rượu tà vạt là thứ không thể thiếu trong ngày Tết của họ.

Ngoài việc ủ rượu, phụ nữ Cơ Tu còn lo giã nếp, hái lá đốt để làm bánh sừng trâu, nấu nhiều cơm lam để ăn và đãi khách. Ngoài ra, đồng bào Cơ Tu còn làm thêm món Za zá - món ăn được xem là đặc trưng của dân tộc. Họ dùng các loại rau, măng, lá môn, chuối xanh, thịt rừng hoặc cá, ếch nhái... trộn lại với nhau rồi cho vào ống nứa tươi và đốt lửa bên ngoài. Đây là món ăn dùng nhắm với rượu tà vạt.

Bên cạnh việc chuẩn bị nhiều món ăn, người Cơ Tu còn tổ chức các hoạt động văn hoá vui chơi như lễ hội đâm trâu, đánh cổng chiêng, nhảy điệu Za zá - điệu múa thiêng trong nghi lễ hiến sinh của người Cơ Tu, thể hiện sự vui mừng, lòng biết ơn đối với thần linh.

Người Gia Rai và Tết Bỏ Mả

Tết của dân tộc Gia Rai còn gọi là Tết Bỏ Mả. Lễ hội này giống với tục tảo mộ Tết thanh minh của người Kinh và giống Tết nhà Mả của đồng bào Ba Na nhưng được tổ chức lớn hơn nhiều.

Khi lễ Bỏ Mả bắt đầu, ngoài nghĩa địa sẽ vang lên tiếng cồng, chiêng, trống và thanh la. Mọi người trong buôn kéo nhau đến bên mồ mả của gia đình và dòng tộc, trên tay cầm đuốc sáng rực. Trước nhà mồ, người ta cắm một cây nêu treo những lá bùa xanh đỏ. Thầy cúng hoặc gia chủ lầm rầm khấn vái Giàng (trời), mong linh hồn của người chết được siêu thoát, về chung vui với con cháu và họ hàng. Người ta bày rượu cần, thịt và đốt lửa ăn uống, vui chơi, nhảy múa thâu đêm suốt sáng.

Người K"Ho ăn Tết mùa

Người K"Ho gọi ngày Tết là Nholir-bông cũng là Tết mừng mùa lúa mới, cơm mới nhưng không diễn ra vài ngày như các dân tộc khác mà kéo dài cả tháng. Đây là tháng nghỉ ngơi sau vụ gặt.

Trước khi diễn ra Tết Nholir-bông, người ta tổ chức lễ cúng Thần gió, cầu cho mưa thuận gió hoà để mùa gặt năm sau của họ được bội thu. Vào Tết Nholir-bông, nhà nào cũng giết trâu, bò, lợn, gà làm thịt, rượu cần cúng mừng có thóc mới.

Người K"ho có tục cắt tiết gà, lấy máu gà bôi lên bồ đựng thóc, các cửa lớn, cửa sổ; trộn máu gà với củ nghệ, mối đất, vỏ cây đa, cỏ tranh giã nhỏ, sau đó bôi lên ngực, lên trán của những người thân trong gia đình, bôi lên các đồ gia dụng với ý nghĩa cầu may, trừ tà...

Người Thái và tục gọi hồn

Thông thường ngày 25 tháng Chạp là phiên chợ cuối cùng, lớn nhất trong năm của người Thái.

Sau vài ngày dọn dẹp nhà cửa, tối 29 người Thái bắt đầu gói bánh chưng. Ngoài bánh chưng như của người Kinh, người Thái còn có thêm một loại bánh chưng màu đen. Để làm bánh chưng, họ đốt rơm, lấy tro giã lẫn gạo nếp rồi sàng sạch muội tro mà vẫn giữ được màu đen. Sau lễ cúng Giao thừa tối ngày 30, mọi người uống rượu suốt đêm và canh cho nhang khói trên bàn thờ tổ tiên cháy liên tục. Nhà nào có chiêng, cồng thì mang ra gõ tại nhà.

Một phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của người Thái là tục gọi hồn. Thường vào tối 29 hoặc 30, mỗi gia đình thịt hai con gà, một để cúng tổ tiên, một để gọi hồn cho mọi người trong nhà. Đầu tiên, người cúng (thường là thày cúng) lấy một cái áo của mỗi người trong gia đình, bó lại một đầu với nhau, vắt lên vai, tay cầm một cây củi đang cháy, mang ra đầu làng gọi hồn hai ba lần, sau đó về chân cầu thang lại gọi một lần nữa. Xong việc, thầy cúng đích thân buộc một sợi chỉ đen vào tay mỗi thành viên gia đình để trừ tà...

Người Nùng không làm bánh ngày chẵn

Với người Nùng, ngày Tết thường kéo dài từ những ngày cuối của năm cũ đến hết 30 tháng Giêng năm sau.

Tết của người Nùng không cầu kỳ tốn kém nhưng chu tất, trịnh trọng. Thứ không thể thiếu trong phong tục ngày Tết của người Nùng là gà trống thiến và bánh khảo. Từ đầu tháng Chạp, nhà nhà đã lo nhốt gà vào lồng để vỗ béo. Người Nùng kiêng gói bánh chưng vào ngày chẵn, theo họ đó là những ngày không tốt, nương ruộng dễ bị vỡ lở, sâu bọ phá hoại mùa màng.

Đối với người Nùng, bữa cơm chiều 30 Tết là lớn nhất trong năm, gia đình sum họp, thắp hương tưởng nhớ ông bà. Sáng mùng Một Tết, người ta cắt những băng giấy đỏ dán lên tất cả những công cụ lao động trong gia đình và mỗi góc cây trong vườn nhà, chuồng trại; thắp hương cầu thần linh phù hộ cho mọi việc đều tốt đẹp trong năm mới...

Tết Prơ-Giê-Râm của người Cơ Tu

Vào mùa xuân, lúc bắt đầu vụ mùa lúa mới, đồng bào các huyện Phước Sơn, Giằng, Hiên ở Quảng Nam tổ chức ăn Tết Prơ-giê-răm. Đây là ngày lễ lớn nhất trong năm. Nhà nhà đều trang trí hết sức đẹp đẽ. Các loại ghẻ, cung nỏ, giáo, mác, thanh la, trống, chiêng được lau chùi cẩn thận. ở nhà Guơi (nhà làng) người ta dựng cột đâm trâu bằng cây gạo trạm trổ, sơn vẽ đẹp mắt. Nhiều sinh hoạt văn hoá diễn ra tại nhà Guơi như kể chuyện, nhảy múa, hát dân ca. Con gái được dịp trao đổi tâm tình và rủ nhau chơi xuân kéo dài cả tháng....

Tết nhảy của người Dao

Người Dao ở Việt Bắc cho rằng, ngày đầu năm không được làm việc mà chỉ lo vui chơi, thăm viếng và chúc tục lẫn nhau. Nhà nào nhà ấy đều trang hoàng sáng sủa và dán nhiều câu đối bằng chữ Hán lên cột nhà hay trên các vách tường để đón mừng xuân.
Người Dao đón Tết bằng tết nhảy gọi là "Nhiang chằm Ðao" để rèn luyện sức khoẻ và võ nghệ. Tết nhảy bắt đầu trước tết Nguyên Ðán chừng vài ba hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa, điệu nhảy, làm gươm đao bằng gỗ để múa. Tết nhảy, mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt trong tiếng trống, tiếng thanh la giục giã...

Tết giọt nước của người Xơ Đăng

Người Xơ Đăng ở Kontum ăn tết rât giản dị và chỉ có hai tết rất giản dị và chỉ có hai tết chính là Tết Giọt Nước và Tết Lửa. Tết Giọt Nước vào khoảng tháng 3 dương lịch. Sau khi mãn mùa, người Xơ Đăng bắt đầu sửa sang lại các máng nước và tổ chức lễ "cúng máng" để cầu mong Thần nước (Yang Dak) ban cho dân làng năm mới được mùa, nước non đầy đủ.

Người trong buôn làng mang choé, nồi đồng ra tại các máng nước để lấy nước mang về nhà, đồng thời tổ chức ăn uống, vui chơi suốt mấy ngày liền. Riêng "Lễ cúng máng nước" cho buôn làng thì được tổ chức tại nhà Rông, do thầy cúng tổ chức vui say, ca hát, nhảy múa, gái trai được tự do trao đổi tâm tình.

Tết của người Hrê

Tết của người đồng bào Hrê ở Quảng Ngãi cũng kéo dài suốt vài tháng liền. Mỗi gia đình phải lo nấu bánh tét, làm rượu cho thật nhiều. Nhà giàu có phải nấu từ 20 đến 40 nồi bánh tét, ủ hàng trăm ché rượu cần, hạ vài con trâu để đãi khách và bà con trong buôn làng. Tất cả mọi người đều tề tựu về nhà chủ làng để ăn mừng, chúc tụng lẫn nhau. Sau đó mới lần lượt đến các nhà khác. Họ vừa ăn uống vừa múa hát. Ðàn ông thì đeo ống chinh, còn đàn bà thì đeo ống bương lấy hai tay vỗ vào đầu ống sẽ tạo thành tiếng bập bùng, bập bùng... Họ thích trò chơi nhảy kẹp. Hai người một nam, một nữ dùng một đòn nhảy dài chừng hai mét, trơn láng rồi đập vào nhau. Cứ hai người ngồi đập thì hai người nhảy, thay đổi cho nhau.

Tết Cơm Mới của người Ê Ðê

Tết Cơm Mới của người Rhadé hay Ê Đê ở Ðắk Lắk là vào khoảng tháng 10 dương lịch. Lúc ấy lúa đã chín vàng cả nương rẫy. Mỗi gia đình mang gùi đi tuốt lúa về phơi khô giã lấy gạo để tổ chức ăn mừng lúa chín. Tuỳ theo gia cảnh giầu hay nghèo mà các gia đình giết trâu, bò, heo, gà nhiều hay ít.
Lễ vật đặt ở giữa nhà gồm một hay hai choé rượu cần buộc chặt vào gốc cột và vài đĩa cơm. Gia chủ hay thầy cúng lầm râm khấn vái: "Lạy thần Mtâo Kia, thần H'Bia Kiu, thần Aêdu, thần Alê Diê đã ban cho chúng con nào thóc lúa, nào kê, nào ngõ. Chúng con thỉnh chư vị thần từ phía Ðông dãy Ngân Hà nơi gần nguồn gốc của lúa, xin giáng lâm chứng giám. Lạy thần Aê Nghi ở dưới đất, lạy thần Aê Ngăn ở trên trời.. xin cho mỗi năm lúa được đầy vựa..."

Tết Yang Pa của người Chơ Ro

Người Chơ Ro và Chu Ru sinh sống tại Ðồng Nai, Lâm Ðồng và Bà Rịa - Vũng Tàu. Hai tết lớn của đồng bào Chơ Ro là lễ cúng thần rừng và lễ cúng thần lúa vào khoảng tháng ba âm lịch. Ngày cúng thần lúa cũng là lúc các cô gái trình cho buôn làng các loại bánh ngon như bánh tét, bánh ống, bánh dầy... Sau lễ cúng thần lúa tại nhà là bữa ăn tập thể do gia chủ đứng ra khoản đãi tại nơi hành lễ. Thường thường nơi cúng lễ là gốc cây cổ thụ trong buôn làng. Họ quan niệm thần lúa thường đến nghỉ ngơi ở đó.

Tết Nhô Lir Bông của người Cơ Ho

Người Cơ Ho hay sinh sống ở Lâm Ðồng. Họ ăn tết sau tết Nguyên Ðán của người Kinh ở miền xuôi độ một tháng, gọi là Nhô Lir Bông, tức tết mừng lúa về nhà. Tết này kéo dài cả tháng. Hai chữ Lir Bông có nghĩa là cót thóc. Người Cơ Ho rất quý trọng thóc lúa, vì thóc lúa là những hạt ngọc của Yàng ban phát. Lễ cúng mừng lúa được tổ chức tại kho lúa của mỗi gia đình, bắt đầu từ xế chiều với sự tham dự của chủ làng và nhiều gia chủ khác. Người ra lấy máu gà hiến sinh bôi lên vựa thóc, sàn kho, các cửa lớn, cửa sổ. Máu gà còn được trộn chung với vỏ cây đa, củ nghệ, các con mối đẩt. Cỏ tranh giã nhỏ để bôi lên ngực, lên trán những thành viên trong gia đình, sau đó còn bôi lên những đồ gia dụng.
Sau lễ cúng cót thóc trong gia đình, người Cơ Ho rủ nhau đi từ nhà này sang nhà nọ để ăn uống, ca hát, nhảy múa chung vui, cứ thế cho đến cả tháng trời mới mãn.

Lễ Tết cổ truyền của người Chăm

Ðồng bào Chăm còn gọi là Chàm, hiện đang sinh sống tại hai tỉnh Bìnhh Thuận, Ninh Thuận và một số ít tại Châu Giang (tỉnh An Giang).

Cũng như các dân tộc anh em khác, người Chăm ăn Tết cũng rất linh đình, nhộn nhịp. Hai lễ lớn nhất trong năm là Păng-Katê và Păng-Chabư được xem như cái Tết của họ.
Păng-Katê cử hành vào ngày 1 tháng 7 theo lịch Chăm tức khoảng tháng 9 dương lịch và Păng-Chabư cử hành vào ngày 16 tháng 9 theo lịch Chăm tức vào khoảng tháng 2, tháng 3 dương lịch.

Vào những ngày lễ, đông đảo đồng bào Chăm từ các nơi dổ về tại ba nơi hành lễ: đó là đền Pô nưgar, tháp Pô Rômê ở huyện Ninh Phước (Ninh Thuận) và tháp Pô Klông Garai ở thị xã Phan Rang - Tháp Chàm.
Tết Păng Katê là ngày tế lễ các vua Chăm thuở xa xưa có công dựng nước và hướng dẫn việc nông tang, thuộc về dòng họ người cha, tượng trưng cho khí dương, cho nên phải cử hành vào buổi mai, còn Tết Păng Chabư là lễ cúng tế các lễ thần Pô Giang nữ, tức các hoàng hậu, công chúa Chăm, thuộc dòng họ mẹ, tượng trưng cho khí âm nên được cử hành vào buổi chiều tối.

Sáng mồng một Tết, các chức sắc Chăm cùng toàn thể bà con xa gần đều tề tựu về ba nơi hành lễ, quần áo thật mới mẻ, chỉnh tề. Các thầy Cả và các bà Bóng ngồi theo phẩm trật, thứ tự cao thấp trong căn nhà dựng trước cửa đền hay cửa tháp.

Lễ cúng gồm có hoa quả, bánh trái đủ loại, cúng cơm, rượu và thịt. Ba nghi lễ gồm các thầy Cả sư, phó Cả sư, thầy Bà xế, thầy Kè-ke vừa kéo đờn Kanhi (đờn mua rùa) vừa xướng văn tế lễ. Còn các bà Bóng thì lo dâng rượu và múa mừng.

Tưởng cũng nên nhắc đến người Chăm gồm có 2 ngành: Ngành theo đạo Bà la môn và ngành theo đạo Hồi. Ngành theo đạo Bà la môn rất kiêng cữ thịt bò, còn ngành theo đạo Hồi thì kiêng ăn thịt lợn.

Ngày tết, người Chăm theo đạo Hồi thường đến nhà thờ đạo Hồi vào ngày đầu năm để nghe chức sắc, đọc kinh Coran, cầu nguyện đấng Alah, sau đó các tín hữu ra sông, ra suối tắm tẩy uế những cái xui, cái xấu của năm cũ và rước cái mới, cái tốt lành của năm mới.

Ngày mồng 2 Tết là ngày dành riêng cho các chức sắc ăn tết tại nhà. Qua ngày thứ ba trở đi, cho đến ngày thứ 7 hay thứ 9 thì đến lượt mọi người tổ chức ăn tết, lần lượt từ nhà này sang nhà khác. Tuy nhiên, mỗi gia đình chỉ lựa chọn cho mình một ngày duy nhất trong khoảng thời gian qui định mà thôi.

Họ giết lợn, giết gà vịt, bày đủ loại hoa quả, bánh trái. Trong dịp Tết, người Chăm không có tục kiêng cữ cho nên bạn bè, hàng xóm trong dịp ở xa có thể đến chung vui một cách thoải mái. Trong thời gian ăn Tết, người Chăm còn tổ chức các trò vui chơi như múa quạt, tổ chức đánh cồng chiêng, ca hát uống rượu, bắn cung.

Ngoài hai lễ lớn trên, người Chăm còn có các lễ khác trong năm như: Lễ cúng thần nông vào tháng 4 theo lịch Chăm, cử hành vào các đền, tháp; lễ cầu đảo (Chakap Hiâu Kron) cử hành tại các đập nước hay ở các bờ sông, bờ suối; lễ cúng ruộng (Pô Phùm) để cầu cho ruộng lúa tốt tươi và lễ Tống ôn (Rija Nưgar) tổ chức vào mồng một tháng giêng theo lịch Chăm, để cầu cho làng xóm, gia đình được thịnh vượng, an khang.

Theo Văn hoá việt

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất