Ngày 23/5, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2020 với mục tiêu
nâng tỷ trọng đóng góp cho GDP cả nước của vùng từ 24,7% năm 2010 lên 26,6% năm
2015 và 28,7% năm 2020.
Đồng thời, nâng cao thu nhập bình quân đầu người lên 2.500 USD vào năm
2015 và khoảng 4.180 USD vào năm 2020 (bằng 1,3 lần mức trung bình của cả nước).
Phấn đấu đến năm 2020 tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của Vùng đạt 7 - 7,5%; công
nghiệp, xây dựng từ 45 - 47%; dịch vụ từ 46 - 48%.
Theo Quy hoạch, ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao trong
các lĩnh vực vận tải, tư vấn, thiết kế, phát minh - sáng chế, tài chính - ngân
hàng, viễn thông, giáo dục - đào tạo, y tế chữa bệnh chất lượng cao, thương mại,
du lịch và khoa học công nghệ. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ thời kỳ
2011-2020 vào khoảng 10%/năm.
Phát triển hạ tầng viễn thông hiện đại, mở rộng diện phủ sóng có băng
thông lớn và chất lượng cao trên diện rộng. Đến 2020, tỷ lệ đường dây thuê bao
cố định đạt 35 - 40 đường/100 dây, tỷ lệ hộ gia đình có điện thoại cố định
80-85%, tỷ lệ thuê bao Internet băng rộng 35 - 40 thuê bao/100 dân, tỷ lệ hộ gia
đình có truy cập Internet trên 65%, dân số sử dụng Internet đạt trên 70%.
Vùng Đồng bằng sông Hồng sẽ phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn của vùng. Đầu tư xây dựng một số khu du lịch trọng điểm quốc gia có tầm vóc
quốc tế. Phấn đấu đến năm 2015 thu hút khoảng 17 - 18 triệu lượt khách trong
nước và 3,2 - 3,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế, đến năm 2020 thu hút khoảng
24 - 25 triệu lượt khách trong nước và khoảng 4,5 - 5,0 triệu lượt khách du lịch
quốc tế.
Về phát triển công nghiệp, vùng Đồng bằng sông Hồng sẽ tập trung phát
triển các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, lợi thế so
sánh, có giá trị nội địa hóa cao, có khả năng tham gia sâu được vào chuỗi giá
trị toàn cầu như điện tử, công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí chế tạo máy;
sửa chữa, đóng tàu thủy và phương tiện hàng hải; thép chất lượng cao và vật liệu
xây dựng mới; hóa - dược phẩm, công nghiệp chế biến thực phẩm và ngành dệt may,
da - giày.
Trong đó, ưu tiên phát triển theo chiều sâu công nghiệp điện tử và công
nghệ thông tin, cơ khí chế tạo máy và sửa chữa - đóng tàu thủy và phương tiện
hàng hải, sản xuất thép chất lượng cao, thép chuyên dụng. Mở rộng quy mô công
nghiệp dược, công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, thực phẩm gắn với các vùng
nguyên liệu.
Phát triển công nghiệp dệt may, da giày theo hướng xuất khẩu và phục vụ
nhu cầu tiêu dùng trong nước, đẩy mạnh phát triển các ngành hỗ trợ như sợi, chỉ
may, nhuộm, thiết kế mẫu sản phẩm để chuyển dần từ gia công sang sản xuất nội
địa hoá sản phẩm vào năm 2020.
Tập trung huy động, thu hút nhà đầu tư để phát triển các khu, cụm công
nghiệp hiện có; phát triển các khu, cụm công nghiệp cơ khí đóng và sửa chữa tàu
biển, các phương tiện hàng hải đáp ứng nhu cầu trong nước ở Hải Phòng, Quảng
Ninh và Nam Định.
Về phát triển nông nghiệp tại vùng Đồng bằng sông Hồng, sẽ tập trung sản
xuất thâm canh lúa đặc sản, rau, hoa và cây trồng vụ đông; phát triển nuôi lợn,
gia cầm với quy mô công nghiệp; nuôi thuỷ sản nước lợ, nước ngọt và nuôi hải sản
trên biển. Áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, công nghệ cao,
hiện đại hóa công tác quản lý nhằm nâng giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 ha
đạt trên 100 triệu đồng vào năm 2020.
Phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội làm
động lực để phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Kết hợp chặt chẽ đầu tư kết
cấu hạ tầng thủy lợi với giao thông, phát triển mạng lưới đô thị và điểm dân cư
nông thôn.
Về giao thông, hoàn thành việc xây dựng hệ thống các trục đường cao tốc
nhằm liên kết các trung tâm kinh tế, thương mại, dịch vụ trong vùng với cả nước;
các trục liên kết vùng, đường kết nối giữa các tỉnh, các tuyến đường ven biển
gắn với đê biển, cảng biển.
Đồng thời, xây dựng hệ thống cảng biển đồng bộ, hướng tới hiện đại, mang
tầm khu vực với trung tâm là cụm cảng Hải Phòng – Quảng Ninh. Trong đó tập trung
phát triển cảng Hải Phòng (Lạch Huyện) thành cảng cửa ngõ quốc tế, đáp ứng nhu
cầu vận tải biển quốc tế và khu vực.
Ưu tiên nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống tuyến đường sắt hiện có; phát
triển đường sắt trên cao tại Thủ đô Hà Nội. Nghiên cứu các phương án để đầu tư
xây dựng các tuyến đường sắt tốc độ cao từ Hà Nội đi các hướng: Thành phố Hồ Chí
Minh, Lào Cai, Hải Phòng, Lạng Sơn.
Phấn đấu đến năm 2020, vận tải hành khách công cộng đô thị Hà Nội đạt 35%,
Hải Phòng và các đô thị tương đương khác đạt 15-20% số lượng hành khách công
cộng./.
(TTXVN)