Thứ Sáu, 20/9/2024
Tuyên truyền
Thứ Ba, 16/2/2010 10:3'(GMT+7)

Thực hiện đồng bộ dân chủ, đoàn kết, đồng thuận xã hội - một tính quy luật cơ bản của phát triển lên CNXH

Không khí dân chủ, cởi mở trong hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các phiên họp Quốc hội luôn được nhân dân cả nước quan tâm. Ảnh minh họa

Không khí dân chủ, cởi mở trong hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các phiên họp Quốc hội luôn được nhân dân cả nước quan tâm. Ảnh minh họa

1- Dân chủ

Thuật ngữ “dân chủ” ra đời khoảng thế kỷ thứ VII-VI trước công nguyên. Xét về mặt ngữ nghĩa, “dân chủ” (Demokratia), trong tiếng Hy Lạp cổ là từ ghép, được cấu thành từ hai từ gốc là: Demos là nhân dân (danh từ); và kratein là cai trị (động từ). Dịch sát nghĩa, Demokratia sẽ là nhân dân cai trị(1). Sau này nó được chuyển thành: “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”(2). Để có dân chủ, nhân dân phải là chủ thể của quyền lực; nếu ngược lại, sẽ là chuyên chế.

Cách mạng XHCN lấy việc giải phóng con người khỏi mọi sự tha hoá, bất công, giành trở lại cho con người cái bản chất vốn có của nó - lao động và hoà bình - làm mục tiêu cơ bản của mình. Muốn vậy, trong giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng đó, giai cấp vô sản phải trở thành giai cấp thống trị, phải "giành lấy dân chủ"(3). Chỉ bằng việc thiết lập Nhà nước XHCN, sử dụng Nhà nước ấy như là một công cụ đắc lực để phát triển toàn diện xã hội mới, trong đó, phát triển triệt để nền dân chủ XHCN là trọng tâm, giai cấp vô sản mới hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình: nhân dân trở thành người chủ đích thực của xã hội, là chủ thể tối cao và duy nhất của mọi quyền lực. Tư tưởng đó của C.Mác và Ph.Ăngghen nói lên bản chất dân chủ của xã hội mới mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang hướng tới.

Vấn đề nêu trên được đặt ra trong điều kiện phải đấu tranh trực tiếp với những quan điểm tư sản về dân chủ và sự tuyệt đối hóa những giá trị dân chủ đạt được trong CNTB đương thời, nên C.Mác và Ph. Ăngghen trước hết vạch trần bản chất giả dối của dân chủ tư sản. Ph.Ăngghen viết về chế độ dân chủ tư sản như sau: “Chế độ dân chủ, giống như bất kỳ chính thể nào khác, cũng là sự dối trá, chẳng qua cũng chỉ là sự giả dối..., là chế độ nô lệ tồi nhất, cuối cùng phải tan rã; sự giả dối không thể tồn tại lâu dài, mâu thuẫn che đậy ở trong đó tất yếu sẽ bộc lộ ra; hoặc là chế độ nô lệ thực sự, tức là chế độ chuyên chế không che đậy, hoặc là tự do thực sự và bình đẳng thực sự, tức là chủ nghĩa cộng sản”(4).

Khi nghiên cứu tư tưởng trên đây của Ph.Ăngghen, cần lưu ý rằng: một là, chế độ dân chủ mà ông viết ở đây là chế độ dân chủ tư sản; hai là, dân chủ tư sản chỉ là giả dối, là bức màn che của bản chất nô lệ trong CNTB; ba là, do vậy, nền dân chủ đó chứa đầy mâu thuẫn mà sự vận động nội tại của những mâu thuẫn ấy nhất định sẽ dẫn chế độ dân chủ tư sản đến chỗ tiêu vong; bốn là, tự do, bình đẳng thực sự chỉ đạt được trong chủ nghĩa cộng sản.

Như vậy, việc phân tích tính chất tạm thời, tính chất nhất định sẽ bị vượt qua của dân chủ tư sản đã đưa Ph.Ăngghen đến tư tưởng về cách mạng XHCN như là bước đi tất yếu để tiến tới một xã hội dân chủ chân chính.

Kế thừa và phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân chủ, V.I.Lênin đã khẳng định sự cần thiết phải kết hợp giữa cuộc đấu tranh cho dân chủ với thắng lợi của CNXH. Người xem chỉ thông qua cuộc đấu tranh đó mới thúc đẩy sự chín muồi của những tiền đề khách quan và chủ quan cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Đấu tranh cho dân chủ, theo ông, cũng không thể dừng lại ở dân chủ tư sản. Sau khi thiết lập chính quyền, việc phát triển triệt để nền dân chủ XHCN là tiền đề để thực hiện thắng lợi hoàn toàn và triệt để mục tiêu của CNXH. Bởi vậy, khi làm rõ nội dung quan điểm về sự thống nhất hữu cơ giữa dân chủ và CNXH, V.I.Lênin chỉ ra rằng, mối quan hệ đó phải được hiểu trên hai phương diện:

Một là, giai cấp vô sản không thể hoàn thành cuộc cách mạng XHCN, nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ.

Hai là, CNXH sẽ không duy trì được thắng lợi, nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ.

Như vậy, dân chủ không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực của quá trình xây dựng CNXH, Bởi lẽ, nhờ có dân chủ, mọi tiềm năng sáng tạo của con người sẽ được phát huy, sức mạnh vật chất và tinh thần được giải phóng nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển cá nhân lành mạnh cũng như thúc đẩy xã hội phát triển.

Trong khi mở rộng dân chủ tới mức tối đa đối với mọi tầng lớp nhân dân, dân chủ XHCN kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ chân chính của nhân dân. Do vậy, trong nền dân chủ XHCN, dân chủ và chuyên chính (theo nghĩa hẹp) không thể tách rời nhau. Theo V.I.Lênin, chuyên chính nhất thiết có nghĩa là thủ tiêu dân chủ đối với giai cấp bị chuyên chính(5).

Kế thừa và phát triển những tư tưởng nêu trên của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, dân chủ không tách rời quan niệm “Dân là gốc”, “Dân là chủ”, “Dân làm chủ”, "Nước ta là nước dân chủ". Để thực hiện quyền làm chủ, nhân dân không những phải có quyền, mà điều quan trọng là nhân dân cần phải có năng lực làm chủ. Người chỉ rõ: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”(6)… Qua đó rút ra: Người dân muốn làm chủ, chẳng những phải biết hưởng quyền làm chủ, mà còn phải biết dùng quyền làm chủ, có bản lĩnh làm chủ, dám nói, dám làm. Để làm chủ, phải có 3 điều kiện: trình độ hiểu biết về dân chủ, phương pháp thực hành dân chủ và bản lĩnh thực hành dân chủ…

Để những hành vi gây tác hại tới quyền dân chủ của nhân dân được xử lý kịp thời,.. theo Hồ Chí Minh, các quyền đó phải được thể chế hoá thành Hiến pháp, thành pháp luật và được thực hiện bằng những thiết chế tương ứng của Nhà nước. Do tính tất yếu đó, dân chủ XHCN trước hết và chủ yếu được thực hiện bằng Nhà nước pháp quyền XHCN với đầy đủ nội dung của từ đó.

Những yêu cầu dân chủ của nhân dân được thể chế hoá thành các chuẩn mực mang tính nhà nước và pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước cũng như các thiết chế chính trị khác, tạo thành chế độ dân chủ.

Trong một chế độ thực sự dân chủ, mọi hoạt động của các thiết chế quyền lực và các cá nhân có phận sự trong các thiết chế đó đều được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Trong chế độ đó, các cơ quan và cá nhân đại diện cho nhân dân có nghĩa vụ báo cáo trước nhân dân mọi hoạt động liên quan tới lợi ích của nhân dân; nhân dân có quyền chất vấn và các cá nhân, các cơ quan tương ứng có nghĩa vụ trả lời một cách trung thực; mọi yêu cầu dân chủ chính đáng của nhân dân không chỉ được thể chế hoá thành pháp luật mà còn được thực thi một cách thực tế... Trong chế độ dân chủ, mọi công chức, người có phận sự trong bộ máy nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, còn nhân dân được làm tất cả những gì luật pháp không cấm...

2. Đoàn kết

- Theo Đại từ điển Tiếng Việt do GS,TS Nguyễn Như Ý chủ biên, “Đoàn kết” là “Kết thành một khối, thống nhất ý chí, không mâu thuẫn, chống đối nhau”(7). Cũng có quan niệm cho rằng, “đoàn kết” là sự đồng thuận và đóng góp của mỗi cá nhân trong một nhóm vì một mục đích hay một công việc chung nào đó mà không làm phương hại đến lợi ích của người khác; hoặc đoàn kết là sự tập hợp mọi lực lượng cá thể thành lực lượng tập thể của cả cộng đồng, nhưng đó không phải là một sự tập hợp tự phát, giản đơn, ô hợp. Đoàn kết là sự tập hợp có ý thức của các cá nhân thành một tập hợp có liên kết với nhau tạo nên một tổng hợp lực để thực hiện những tác động cùng chiều theo một (hoặc một số) mục tiêu nhất định.

- Đoàn kết là phạm trù thuộc lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tinh thần, lấy sự thống nhất về nhu cầu, lợi ích làm cơ sở. Nhu cầu, lợi ích nói ở đây có thể là nhu cầu, lợi ích vật chất, nhưng cũng có thể là nhu cầu, lợi ích tinh thần hoặc cả hai; trong đó, xét đến cùng, sự thống nhất về nhu cầu, lợi ích vật chất là nhân tố mang tính quyết định. Song, cần lưu ý rằng, tuỳ hoàn cảnh, điều kiện cụ thể và phụ thuộc vào tính chất các cộng đồng người, các nhân tố gắn kết con người lại với nhau sẽ có vị trí không hoàn toàn như nhau.

Đoàn kết là một động lực mạnh mẽ của sự phát triển xã hội. Động lực đại đoàn kết dân tộc đã giữ vai trò quyết định thắng lợi trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong kháng chiến để giữ vững nền độc lập đó. Ngày nay, động lực đại đoàn kết dân tộc cũng đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy công cuộc đổi mới vì CNXH ở nước ta.

3. Đồng thuận xã hội (8)

“Đồng thuận xã hội” là một khái niệm mới được sử dụng ở nước ta trong những năm gần đây, nên còn có những cách hiểu khác nhau.

Có ý kiến cho rằng, có thể hiểu một cách đơn giản, đồng thuận là kết quả của sự tự giác, sự tự nguyện đồng ý của mọi người với nhau chứ không phải là kết quả của sự cưỡng bức. Sự cưỡng bức hay áp đặt dưới hình thức nào cũng không tạo ra sự đồng thuận đích thực...

Nhà triết học Hêghen nói rằng, đồng nhất không bao hàm khác biệt và mâu thuẫn là sự đồng nhất trống rỗng, không chứa đựng chân lý. Đồng nhất chân chính bao hàm trong đó sự khác biệt và mâu thuẫn. Đồng nhất chỉ có nghĩa khi bao hàm khác biệt và mâu thuẫn. Theo tinh thần đó, cũng có thể nói: Đồng thuận không loại trừ sự khác biệt. Đó là hai mặt của một mâu thuẫn. Thông qua đấu tranh mà có sự đồng thuận tốt hơn, cao hơn. Song, điều đó cũng có nghĩa, mục tiêu của đấu tranh giữa những cái khác nhau, đối lập đó chính là để bảo đảm đồng thuận tốt hơn, cao hơn, và do đó, có sự phát triển mạnh mẽ hơn. Sự phát triển không chỉ là “một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”, mà còn là “sự thống nhất giữa các mặt đó” như Lênin đã viết trong tác phẩm Bút ký triết học. Xuất phát từ quan niệm như vậy, có nhà nghiên cứu cho rằng: “Đồng thuận là giới hạn hợp lý của đấu tranh và hợp tác; và đồng thuận xã hội là biểu hiện của sự đồng thuận ở mức độ cao nhất, rộng lớn nhất, và nó tạo ra sự thống nhất chính trị, kinh tế và văn hóa của xã hội”.

Cơ sở của đồng thuận xã hội là sự thống nhất về lợi ích. Tìm kiếm và xác lập đồng thuận xã hội thực chất là tìm kiếm những lợi ích chung, làm cho mọi người giác ngộ lợi ích chung, lấy đó làm cơ sở định hướng cho hoạt động của mình. Trong điều kiện bình thường, sự đồng thuận đó đạt được bằng sự thoả thuận trong thương lượng. Từ đó, theo ý kiến này, sự đồng thuận là kết quả của quá trình thỏa thuận mà trong đó, mỗi người đều có năng lực và điều kiện để thương lượng.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt do GS,TS Nguyễn Như Ý chủ biên, thì “đồng thuận” có nghĩa là “cùng chấp thuận, cùng đồng ý, thống nhất (giữa các bên tham gia)”(9).

Khi nói về nguyên tắc đồng thuận trong phối hợp và hành động chung, có ý kiến cho rằng, nguyên tắc đó phải đảm bảo mọi vấn đề, mọi quyết định không theo đa số mà theo mức độ đồng thuận. Sự đồng thuận tối đa là quyết định đưa ra được tất cả đều đồng tình. Đồng thuận tối thiểu là khi một vấn đề nào đó được bàn bạc, nhưng chỉ đạt được sự nhất trí trên những nội dung căn bản, hoặc trên một số nội dung nhất định. Trong trường hợp đó, nguyên tắc đồng thuận không cho phép đa số áp đặt ý chí của mình, thiểu số không bắt buộc phải thực hiện quyết định của đa số. Dù đa số hay thiểu số các thành viên sẽ chỉ cùng thực hiện những gì mà mình đồng ý, những gì đã thoả thuận được.

Kế thừa các nhân tố hợp lý của các quan niệm nêu trên, chúng tôi cho rằng, đồng thuận xã hội là sự đồng tình, nhất trí trong suy nghĩ và hành động của một cộng đồng xã hội(10) về một (hay một số) vấn đề nào đó trên cơ sở những điểm tương đồng về nhu cầu, lợi ích… trong lúc vẫn thừa nhận những điểm khác biệt với điều kiện những khác biệt này không làm tổn hại đến mục tiêu chung, hành động chung của cộng đồng đó.

Từ quan niệm này, khi nói tới sự đồng thuận, cần lưu ý một số điểm dưới đây:

Thứ nhất, mức độ, phạm vi đồng thuận xã hội đạt được tùy thuộc vào nhiều vấn đề, nhưng cơ bản nhất là đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của đa số trong cộng đồng đó.

Thứ hai, sự đồng tình, nhất trí này không phải là bằng bạo lực, cưỡng bức mà phải trên cơ sở tự nguyện.

Thứ ba, khó có thể đạt được đồng thuận một cách toàn diện và triệt để, tức là với tất cả mọi người về mọi vấn đề. Do đó, xây dựng sự đồng thuận ở một cộng đồng xã hội nhất định, điều quan trọng là xác định cho được những điểm tương đồng mà cộng đồng đó có trong điều kiện cụ thể khi đó, lúc đó; phải làm sao để các thành viên trong cộng đồng ý thức rõ điểm chung này và lấy đó làm cơ sở cho suy nghĩ và hành động của mình.

Thứ tư, sự đồng tình, nhất trí giữa các thành viên, các nhóm xã hội phải dựa trên cơ sở những điểm tương đồng, nhưng vẫn chấp nhận những sự khác biệt, nếu những khác biệt đó không ảnh hưởng đến mục tiêu chung.

Như trên đã đề cập, cơ sở của đồng thuận xã hội là sự thống nhất trong suy nghĩ và hành động trên cơ sở có sự thừa nhận giá trị chung nào đó (nhu cầu, lợi ích… chung) của một cộng đồng xã hội; cho nên, khi nói tới vai trò của đồng thuận xã hội như một động lực của sự phát triển xã hội chính là nói tới sự tác động cùng chiều, cùng một phương hướng của cộng đồng đối với sự phát triển xã hội. Từ thực tế cho thấy, tác động này có thể dẫn tới hai khả năng: Một là, thúc đẩy xã hội phát triển tiến bộ theo đúng quy luật tiến hoá khách quan của xã hội; hai là, kìm hãm, thậm chí kéo lùi sự phát triển của xã hội. Sở dĩ có hai khả năng đó là do nhu cầu, lợi ích thoả mãn ước muốn của khối quần chúng đông đảo nào đó có thể là những nhu cầu, lợi ích đúng đắn, tiến bộ; nhưng có khi đó lại là những nhu cầu, lợi ích không phù hợp với tiến bộ xã hội. Sự đồng thuận của hàng ngàn đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên trong cuộc xuống đường vào đầu năm 2001 là một thí dụ cho trường hợp thứ hai. Do vậy, không thể nói một cách trừu tượng “đồng thuận xã hội là động lực phát triển xã hội”. Chỉ đồng thuận nào dựa trên tính chung về nhu cầu, lợi ích tiến bộ, phù hợp quy luật phát triển xã hội mới là động lực phát triển xã hội. Sự đồng thuận chúng ta cần có chính là loại này.

4. Thực hiện đồng bộ dân chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thuận xã hội là quy luật phát triển xã hội, là một động lực căn bản nhất của đổi mới vì CNXH ở Việt Nam

Từ những điều trình bày trên đây về dân chủ, đoàn kết, đồng thuận xã hội có thể thấy rõ các khái niệm đó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Điều đó biểu hiện ở ba điểm:

Một là, cả dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội đều là những nhân tố của quá trình phát triển, là động lực của phát triển xã hội, đều vì ổn định và phát triển xã hội.

Hai là, vai trò động lực đó chỉ có được, khi dân chủ, đoàn kết, đồng thuận xã hội được xác lập phù hợp với tính tất yếu khách quan của tiến bộ xã hội, khi lấy quy luật phát triển xã hội làm cơ sở và định hướng tác động của chúng.

Ba là, suy cho cùng, dân chủ, đoàn kết, đồng thuận xã hội đều được hình thành và phát triển trên cơ sở giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích giữa người và người, khi có sự hài hoà về nhu cầu, lợi ích giữa người và người. Thật vậy, ngay khi xem dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân, cũng đòi hỏi phải thừa nhận rằng quyền làm chủ của người này không thể gây nguy cơ, vi phạm quyền làm chủ của người khác. Dân chủ còn là sự tôn trọng ý kiến của thiểu số, trong khi quyết định theo đa số. Đây lại là một khía cạnh của khoan dung. Khoan dung cũng là một đòi hỏi tất yếu để có đồng thuận, đoàn kết xã hội. Trong khi đó, sự thống nhất về nhu cầu, lợi ích, sự không mâu thuẫn trên các phương diện đó là cơ sở của đoàn kết và đồng thuận xã hội.

Những cái chung nêu trên làm cho dân chủ, đoàn kết, đồng thuận xã hội có mối quan hệ nội tại với nhau, trong đó, dân chủ là nhân tố có tác động trực tiếp nhất, mạnh nhất tới đoàn kết, đồng thuận xã hội, tạo thành cơ sở của mối liên hệ giữa các khái niệm này. Trong sự thống nhất của chúng, đồng thuận, khoan dung, đoàn kết và dân chủ có mối liên hệ nội tại với hoà bình, khiến chúng trở thành nhu cầu phát triển đất nước và thời đại trong điều kiện mới. Bởi lẽ, hoà bình và phát triển là nguyện vọng và xu thế của thời đại ngày nay.

Đi sâu hơn, chúng ta cũng thấy: Dân chủ, suy cho cùng, là quyền làm chủ của dân, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội; là thái độ đối với con người, là thái độ đối với nhu cầu và lợi ích của con người; là sự tôn trọng tính đa dạng của những nhu cầu, lợi ích đó; là năng lực khơi gợi và phát huy những tiềm năng lành mạnh của con người vì sự phát triển của xã hội và cá nhân; là việc giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa sự phát triển cá nhân với sự phát triển xã hội nhằm mục tiêu giải phóng con người.

Từ đó có thể khẳng định: Dân chủ, đoàn kết, đồng thuận xã hội có mối quan hệ biện chứng, chúng thâm nhập vào nhau; là điều kiện, tiền đề và kết quả của nhau; sự tác động cùng chiều của chúng sẽ thúc đẩy nhau phát triển.

Xét trong tính riêng biệt của nó, mỗi nhân tố - dân chủ, hay đoàn kết, hay đồng thuận xã hội - là một động lực phát triển xã hội; sự tác động cùng chiều của các động lực đó sẽ tạo thành một tổng hợp lực thúc đẩy mạnh mẽ sự vận động tiến lên của xã hội. Xét về lịch sử phát triển riêng biệt của hầu hết các quốc gia trên thế giới cũng như ở các giai đoạn phát triển cụ thể của Việt Nam, chúng ta đều thấy như vậy. Mối quan hệ giữa dân chủ, đoàn kết, đồng thuận xã hội là một mối quan hệ biện chứng, khách quan, thể hiện nhân tố mang tầm bản chất, góp phần thúc đẩy mọi quá trình phát triển xã hội. Do đó, mối quan hệ giữa ba nhân tố đó tạo thành một quy luật phổ biến của tiến bộ xã hội.

Để vận dụng tổng hợp dân chủ, đoàn kết, đồng thuận xã hội như một quy luật căn bản nhất của sự phát triển xã hội, một trong những vấn đề then chốt là phải tìm ra cái giống nhau trong sự khác nhau, phải nêu cao mặt tương đồng để hạn chế tiêu cực của mặt dị biệt; phải lấy lợi ích chung của sự phát triển xã hội làm định hướng hoạt động của mọi cá nhân, nhóm người và cả cộng đồng xã hội; phải xác lập và củng cố không ngừng sự nhất trí xã hội trên những vấn đề cơ bản, từ đó, có sự thống nhất trong hành động là một đòi hỏi bức xúc của sự phát triển xã hội ta hiện nay… Điều đó giải thích vì sao, trong khi đánh giá cao vai trò của sự thống nhất, đồng thuận xã hội đối với sự phát triển của quá trình đổi mới đất nước, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Khóa X của Đảng cũng biểu lộ sự băn khoăn, lo lắng trước tình trạng: “Trong Đảng xuất hiện các ý kiến khác nhau về một số vấn đề cơ bản liên quan đến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng tới sự thống nhất tư tưởng. Trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kể cả trong lực lượng nòng cốt, gắn bó với Đảng, với chế độ, đã phát sinh một số vấn đề tư tưởng, tâm trạng bức xúc đáng lo ngại, ảnh hưởng tới tính đồng thuận xã hội”(11).

Nhằm khắc phục tình trạng vừa nêu, Đảng ta xem một trong những mục tiêu của công tác lý luận, tuyên truyền, báo chí và xuất bản trong giai đoạn hiện nay là phải góp phần tích cực vào việc tăng cường sự thống nhất chính trị, tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận về chính trị và tinh thần trong nhân dân…; phát huy sức mạnh của nền dân chủ XHCN, của đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao ý chí thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới…(12)./.

GS.TS Phạm Ngọc Quang
---------------

(1) Xem: Bách khoa thư điện tử, Microsoft 2000.

(2) Xem: The Oxford Companion to Politics of The World, New York - Oxford, 1993, tr.220-224.

(3) C.Mác - Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, t.4, tr.626.

(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.1, tr.723.

(5) Xem: V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb TB, M, 1977, t.37, tr.292.

(6) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.4, Nxb CTQG, H, 2000, tr.36.

(7), (9) Đại từ điển Tiếng Việt. Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh, 2008, tr.534, 555.

(8) Xem: TS.Nguyễn Thị Lan: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay. Luận án Tiến sỹ. 2008.

(10) Cộng đồng này có thể rộng hẹp khác nhau, từ cộng đồng gia đình, làng xóm… đến cộng đồng giai cấp, dân tộc, nhân loại

(11), (12) ĐCSVN. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X. Nxb CTQG, H, 2007, tr.34, 40.
Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất