TÁC ĐỘNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ TOÀN CẦU VÀ KINH TẾ VIỆT NAM
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm.
Đại dịch COVID-19 đã tác động sâu sắc đến mọi phương diện của đời sống
kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, trên lĩnh vực
kinh tế, đại dịch COVID-19 khiến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế
giới sụt giảm nghiêm trọng do đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu cùng
các biện pháp hạn chế di chuyển của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo
Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2020, tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu đạt
3,6% - mức thấp nhất trong vòng 50 năm qua (1970 - 2020). Trước ảnh
hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, các quốc gia phải áp dụng mọi biện
pháp chưa từng xuất hiện trước đó để giảm thiểu sự tác động và hậu quả
của dịch bệnh, như hạn chế di chuyển quốc tế, giãn cách xã hội, tạm dừng
các hoạt động tại những địa điểm kinh doanh, sản xuất... Phần lớn các
quốc gia trên thế giới đều chấp nhận đóng cửa biên giới và tạm ngừng cấp
thị thực cho người nước ngoài. Năm 2021, nền kinh tế thế giới đã phục
hồi nhanh chóng với mức tăng trưởng đạt 5,8%(1). Thông qua
chính sách bao phủ vắc-xin phòng, chống dịch bệnh cùng nhiều chương
trình hỗ trợ của các liên minh khu vực và tổ chức quốc tế, đại dịch
COVID-19 dần được kiểm soát. Năm 2022, kinh tế thế giới tiếp tục chịu
tác động từ cuộc xung đột Nga - U-crai-na khiến nguồn nguyên, nhiên liệu
rơi vào tình trạng khan hiếm trầm trọng, đẩy giá năng lượng và thực
phẩm tăng cao, làm suy giảm tốc độ tăng trưởng toàn cầu và nâng dự báo
lạm phát.
Là
một trong những quốc gia chịu tác động của đại dịch COVID-19, các chỉ
số kinh tế vĩ mô của Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt. Năm 2020, mặc dù
tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 2,1%, nhưng so với
năm 2019, con số này đã sụt giảm 4,1%. Năm 2021, kinh tế Việt Nam có mức
tăng trưởng 2,58%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2020 và cũng thấp hơn so
với mục tiêu đặt ra là 6,5%. Đây cũng là mức tăng thấp nhất của kinh tế
Việt Nam trong nhiều năm qua.
Thứ hai, tỷ trọng thương mại giảm.
Năm 2019, nền kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch
COVID-19, vì vậy tỷ trọng thương mại toàn cầu đã sụt giảm 22%; tổng sản
lượng xuất khẩu toàn cầu giảm 1,4 nghìn tỷ USD. Sang năm 2020, thương
mại toàn cầu bắt đầu có sự tăng trưởng nhanh chóng trở lại, đạt mức cao
nhất 28,5 nghìn tỷ USD, tăng 13% so với giai đoạn trước đại dịch
COVID-19(2). Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tốc độ
tăng trưởng thương mại hàng hóa trong quý I và quý II-2022 tăng lần lượt
4,8% và 4,7% so với cùng kỳ năm 2021, tuy nhiên mức dự báo tăng trưởng
khối lượng thương mại hàng hóa năm 2022 chỉ ở mức 3,5% và năm 2023 là 1%
do những tác động liên quan đến cuộc xung đột Nga - U-crai-na và chính
sách thắt chặt tiền tệ của các nền kinh tế lớn.
Cũng
như các nền kinh tế khác trên thế giới, sự bùng phát của đại dịch
COVID-19 từ tháng 3-2020 đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng tại Việt Nam.
Các thị trường đối tác thương mại lớn của Việt Nam, như Mỹ, Liên minh
châu Âu (EU), Nhật Bản, Pháp... đều suy giảm đáng kể nhu cầu nhập khẩu.
Các mặt hàng chủ lực của Việt Nam đều chịu tác động kép khi vừa cải
thiện được khâu nguyên liệu đầu vào, nhưng lại vướng mắc ở thị trường
đầu ra. Do vậy, tỷ trọng xuất khẩu năm 2020 sụt giảm hơn 31% so với năm
2019; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam đạt 545,36 tỷ USD,
trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 282,66 tỷ USD, chiếm 51,8% cơ cấu xuất,
nhập khẩu của Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng
tiêu cực của đại dịch COVID-19, kết quả này được coi là dấu hiệu tích
cực đối với nền kinh tế Việt Nam. Năm 2021, tổng sản lượng thương mại
hàng hóa đạt 668,54 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020. Trong đó, kim
ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu lần lượt tăng 19% và 26,5%. Theo
số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong 10 tháng đầu năm 2022, kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 312,9 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ
năm 2021. Các khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) ghi nhận sự tăng trưởng khá đồng đều; cán cân
thương mại đạt mức độ thặng dư (xuất siêu đạt 9,6 tỷ USD). Có được kết
quả này chính là nhờ sự điều hành thống nhất, linh hoạt và sát sao của
Chính phủ với mục tiêu “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả
dịch bệnh COVID-19”. Đây là tiền đề để các hoạt động xuất, nhập khẩu
hàng hóa của Việt Nam tiếp tục mang lại những kết quả khả quan trong bối
cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất ổn.
Đại
dịch COVID-19 đã đẩy nhanh các xu thế điều chỉnh cấu trúc và đặc điểm
thương mại quốc tế bởi sự lây lan của dịch bệnh làm gián đoạn chuỗi cung
ứng toàn cầu khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình mô
hình hóa và đánh giá rủi ro. Trong bối cảnh đó, cấu trúc thương mại hàng
hóa của Việt Nam chứng kiến sự thay đổi với sự sụt giảm rõ rệt ở các
mặt hàng, như nhiên liệu, máy móc, cơ khí, thép... Trong đó, nhu cầu đối
với các mặt hàng, như thuốc và thiết bị bảo hộ, thực phẩm... tăng lên
nhanh chóng. Thương mại dịch vụ du lịch giảm mạnh. Năm 2020, số lượng
khách quốc tế đến Việt Nam giảm 78,7% so với cùng kỳ năm 2019, tổng
nguồn thu từ du lịch sụt giảm. Các biện pháp ngăn ngừa sự lây lan của
đại dịch đã làm giảm năng suất và khối lượng sản xuất. Chưa kể, đại dịch
COVID-19 ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người lao động, gây tình
trạng khan hiếm nguồn nhân lực tại các nhà máy sản xuất. Cùng với đó,
lượng cung hàng hóa thiết yếu không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu của
người dân. Ngoài ra, các biện pháp đối phó với dịch bệnh làm gián đoạn
nhiều chuỗi sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, ảnh hưởng tới quá trình
đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng, làm gián đoạn khâu sản xuất, tạo
ra sự đứt gẫy trong chuỗi cung ứng.
XU HƯỚNG CHUYỂN ĐỔI CỦA THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Thứ nhất, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, thương mại điện tử tiếp tục phát triển mạnh mẽ và trở thành xu hướng ưu tiên.
Các
doanh nghiệp ngày càng chú trọng mở rộng phát triển thương mại điện tử.
Các hoạt động thương mại điện tử thay đổi nhanh chóng với nhiều phương
thức trao đổi mới để phù hợp với hành vi của người tiêu dùng. Những năm
qua, thương mại điện tử vẫn giữ tốc độ tăng trưởng ổn định, trong năm
2022 đã tăng lên mạnh mẽ với mức tăng trưởng đạt 20%. Đồng thời, trong
giai đoạn 2020 - 2021, giá trị tiền mặt lưu thông có xu hướng tăng, mặc
dù tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán giảm (năm 2020, tỷ lệ
này là 11,66% và năm 2021 là 11,48%); hoạt động thanh toán không dùng
tiền mặt đạt mức tăng trưởng cao (thanh toán qua kênh internet tăng
48,8% về số lượng và 32,6% về giá trị; thanh toán qua kênh điện thoại di
động tăng 76,2% về số lượng và 87,5% về giá trị); tỷ trọng các giao
dịch rút tiền mặt qua máy rút tiền tự động (ATM) trên tổng các giao dịch
xử lý qua hệ thống của Công ty Cổ phần Thanh toán quốc gia Việt Nam
(NAPAS) giảm mạnh từ 26% (năm 2020) xuống mức 12% (năm 2021). Trong
tương lai, hình thức thương mại điện tử sẽ trở thành ưu tiên của người
tiêu dùng, cùng với đó, việc sử dụng tiền mặt dần sẽ được thay thế bởi
phương thức thanh toán trực tuyến, góp phần thúc đẩy phát triển mạnh mẽ
công nghệ tài chính (Fintech). Mặt khác, thương mại số, thương mại xuyên
biên giới đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, phát triển hạ tầng công
nghệ thông tin và kết nối internet. Năm 2022, nền kinh tế số của Việt
Nam có tốc độ tăng trưởng 28% - mức tăng cao nhất khu vực Đông Nam Á.
Đại dịch COVID-19 cùng những biện pháp giãn cách xã hội đã tạo động lực
cho các doanh nghiệp chủ động chuyển đổi các chức năng và nâng cao chất
lượng cho khách hàng khi sử dụng các nền tảng trực tuyến.
Thứ hai, thương mại quốc tế thúc đẩy hợp tác về công nghệ số.
Bên
cạnh các hiệp định thương mại tự do (FTA), các hiệp định số sẽ hình
thành đối với hàng hóa và dịch vụ truyền thông. Sau ba năm thực thi Hiệp
định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), các
doanh nghiệp Việt Nam đã khai thác hiệu quả cơ hội từ CPTPP và đạt được
những kết quả tích cực. Theo báo cáo của Bộ Công Thương, năm 2021, tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên CPTPP đạt
khoảng 45,7 tỷ USD, tăng 18,1% so với năm 2020. Ở chiều ngược lại, tổng
kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ các nước thành viên CPTPP đạt khoảng
45,5 tỷ USD, tăng khoảng 37,6% so với năm 2020. Trong 10 tháng đầu năm
2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước thành
viên CPTPP đạt 88,1 tỷ USD, tăng khoảng 19,2% so với cùng kỳ năm 2021.
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường các nước thành viên CPTPP
đạt 45,1 tỷ USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2021. Thương mại dịch vụ
kỹ thuật số được mở rộng, CPTPP nổi lên như một chuẩn mực chính sách với
các hiệp định kinh tế kỹ thuật số. Việc khuyến khích sự gia tăng và áp
dụng các tiêu chuẩn này có thể mở đường thúc đẩy các tiêu chuẩn kỹ thuật
số được áp dụng rộng rãi và hiệu quả.
Thứ ba, thương mại hướng tới phát triển bền vững.
Các
FTA thế hệ mới không chỉ giới hạn về thương mại và dịch vụ, mà còn đề
cập tới lĩnh vực khác, bao gồm môi trường và phát triển bền vững. Các
điều khoản về môi trường và phát triển bền vững được lồng ghép và trở
thành một chương riêng biệt trong các hội nghị. Sau hai năm thực thi
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), thương mại song phương
Việt Nam - EU tăng trưởng rất tích cực, tuy nhiên chưa tương xứng với
tiềm năng và nhu cầu của hai bên. Thời gian qua, một số doanh nghiệp
Việt Nam đã chủ động xây dựng được thương hiệu riêng, cải tiến sản xuất
nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường khi tham gia sâu chuỗi cung
ứng của thị trường EU. Châu Âu khuyến khích việc phát triển các nguồn
năng lượng xanh, năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Các doanh nghiệp châu
Âu cũng mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm, công nghệ, đầu tư nguồn tài
chính cho các lĩnh vực thúc đẩy tính bền vững của nền kinh tế Việt Nam.
Về phía Việt Nam, một số doanh nghiệp đã chủ động nâng cao năng lực,
điều chỉnh chiến lược sản xuất, kinh doanh phù hợp để nhanh chóng thích
nghi và phát triển theo lộ trình xanh và bền vững. Hơn nữa, để hỗ trợ
các doanh nghiệp thích ứng nhanh với tiêu chuẩn của các FTA, Bộ Công
Thương đã xây dựng chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng lợi ích từ
các FTA, với các hoạt động, như phổ biến, tuyên truyền các cam kết cũng
như quy tắc xuất xứ; đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu trên nền tảng số, hỗ
trợ kết nối giao thương; tuyên truyền và hỗ trợ doanh nghiệp phòng,
tránh nguy cơ bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại khi xuất khẩu
hàng hóa. Hơn nữa, với những thị trường có yêu cầu nghiêm ngặt về nguồn
gốc xuất xứ nguyên liệu, các doanh nghiệp phải sử dụng nguồn nguyên liệu
tiêu chuẩn nhằm đáp ứng tiêu chí xuất xứ, để xuất khẩu sang các thị
trường bên ngoài được thuận lợi, mang lại hiệu quả cao và bền vững. Đây
cũng là xu thế không thể đảo ngược trên toàn cầu và là yêu cầu bắt buộc
để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị mới.
Thứ tư, xuất hiện sự dịch chuyển, tái cấu trúc các chuỗi cung ứng theo hướng tin cậy, an toàn và bền vững hơn.
Đại
dịch COVID-19 đã tạo ra những thách thức đối với chuỗi cung ứng khi gây
gián đoạn và đứt gãy chuỗi giá trị toàn cầu, đặc biệt là trong các lĩnh
vực về hậu cần. Thiếu hụt chất bán dẫn, giá năng lượng tăng cao, chi
phí vận chuyển tăng... đều là những lý do tạo động lực để cấu trúc hóa
một mạng lưới sản xuất linh hoạt hơn. Tại Việt Nam, tiêu dùng bền vững
đang ngày càng được cộng đồng người tiêu dùng và cả doanh nghiệp quan
tâm hơn. Thời gian qua, đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy người tiêu dùng
mua sắm có kế hoạch, có chủ đích và chuyển sang tiêu dùng bền vững, hợp
lý hơn. Các mặt hàng được lựa chọn hàng đầu là thực phẩm và sản phẩm y
tế bởi những mặt hàng này góp phần quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe
và bảo đảm cuộc sống trước thực trạng dịch bệnh vẫn lan rộng với những
biến thể nguy hiểm hơn. Mặc dù đại dịch COVID-19 mang lại nhiều bất lợi
và khó khăn cho doanh nghiệp, nhưng thực tế cho thấy, đây cũng là cơ hội
để doanh nghiệp có thể phát triển theo hướng bền vững hơn, hướng tới
các giá trị cộng đồng nhiều hơn. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã thay đổi
mô hình kinh doanh, từ sản xuất đến phân phối, vận chuyển và tiêu thụ.
Đây là giải pháp tối ưu giúp doanh nghiệp phát triển bền vững trong
chuỗi cung ứng hiện nay.
Thứ năm, ưu tiên hợp tác song phương, hợp tác khu vực và hợp tác theo nhóm.
Đại
dịch COVID-19 cho thấy mặt bất lợi của toàn cầu hóa, kích thích xu
hướng bảo hộ thương mại, mặc dù toàn cầu hóa và liên kết quốc tế vẫn là
xu thế khách quan. Tại Việt Nam, liên kết kinh tế quốc tế vẫn được duy
trì, thúc đẩy trong bối cảnh bất ổn của nền kinh tế thế giới với nhiều
yếu tố đan xen, mang tính cộng hưởng. Xu hướng khu vực hóa thương mại
cũng có chiều hướng gia tăng, Việt Nam liên tục đàm phán và ký kết các
FTA thế hệ mới, như EVFTA, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực
(RCEP). Chính phủ Việt Nam đưa ra những lĩnh vực tiềm năng, những hợp
tác triển vọng có thể khai thác, triển khai nhằm thúc đẩy mối quan hệ
song phương, đặc biệt là trong quá trình hồi phục, phát triển kinh tế,
xã hội giai đoạn tới khi mà đại dịch COVID-19 sẽ được kiểm soát và đẩy
lùi. Việc gia tăng các liên kết kinh tế khu vực cũng thúc đẩy quá trình
chuyển hướng thương mại từ các nền kinh tế ngoài khối liên kết và khuyến
khích khu vực hóa dòng chảy thương mại, góp phần phục hồi kinh tế trong
bối cảnh mới.
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Cơ hội cần tận dụng
Một là,
trong bối cảnh hiện nay, các xu thế mới tiếp tục khẳng định định hướng
ưu tiên đối ngoại của Việt Nam là đúng đắn; Việt Nam là thành viên của
nhiều sáng kiến, liên kết khu vực, như Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB), CPTPP, EVFTA, RCEP... Bên cạnh đó, Việt
Nam cũng tham gia quá trình đàm phán một số sáng kiến, hiệp định, như
Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF), Hiệp định thương
mại tự do giữa Việt Nam và Khối EFTA(3) (VN - EFTA FTA),
Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và I-xra-en (VIFTA). Từ đó, quá
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng được sâu rộng, đa dạng
hóa, đa tầng nấc. Trong quan hệ hợp tác với đối tác quy mô nhỏ, vị thế
của Việt Nam được tăng cường, góp phần đưa các quan hệ song phương, tiểu
đa phương đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả.
Hai là,
vai trò và giá trị của khu vực châu Á - Thái Bình Dương ngày càng được
củng cố thông qua các FTA song phương, tiểu đa phương và khu vực mới.
Trong đó, Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng và hệ
thống kinh tế - thương mại khu vực, thế giới. Việc sở hữu môi trường
kinh tế vĩ mô và tình hình chính trị ổn định, với nền kinh tế năng động,
thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng, môi trường kinh doanh ngày càng
hoàn thiện, nhiều chỉ số về môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh
của Việt Nam được cải thiện đáng kể... là những thuận lợi lớn để Việt
Nam nắm bắt tốt các cơ hội, thu hút các tập đoàn lớn, tập đoàn công nghệ
cao có nhu cầu dịch chuyển sản xuất và chuỗi cung ứng khu vực và toàn
cầu. Trong thời gian qua, đại dịch COVID-19 ảnh hưởng tiêu cực tới nền
kinh tế thế giới, dòng vốn FDI toàn cầu sụt giảm mạnh mẽ. Năm 2020, mặc
dù dòng vốn FDI vào Việt Nam giảm 25% so với cùng kỳ năm 2019, nhưng đến
năm 2021, trong bối cảnh bất ổn của nền kinh tế thế giới, dòng vốn FDI
vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng, đạt 9,1% (hơn 31 tỷ USD).
Sản xuất linh kiện điện tử tại các doanh nghiệp FDI ở Khu công nghiệp Bình Xuyên 2, tỉnh Bắc Giang. (Ảnh: TTXVN)
Ba là,
thương mại số và kinh tế số trở thành động lực để phục hồi và phát
triển kinh tế. Năm 2021, kinh tế số tại Việt Nam đóng góp 6% vào GDP,
trong đó, lĩnh vực thương mại tăng trưởng mạnh nhất với tỷ lệ tăng hơn
50% so với cùng kỳ năm 2020; tổng lượng xuất, nhập khẩu hàng hóa cũng
đạt đỉnh với 668,5 tỷ USD. Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp trong và ngoài
nước đã có những biện pháp kịp thời ứng phó với đại dịch COVID-19 và tận
dụng cơ hội để cải thiện hiệu quả làm việc bằng cách áp dụng công nghệ
vào quá trình quản lý, sản xuất, kinh doanh... Qua đó, thương mại số
giúp duy trì và phát triển chuỗi liên kết của các doanh nghiệp, của
doanh nghiệp với khách hàng, góp phần không nhỏ giảm thiểu ảnh hưởng
tiêu cực do đứt gãy chuỗi cung ứng.
Một số thách thức
Thứ nhất, trong bối cảnh đại
dịch COVID-19 được kịp thời kiểm soát, Việt Nam cần đưa ra những chính
sách hợp lý để phục hồi nền kinh tế và chuẩn bị năng lực để ứng phó với
các dịch bệnh khác có thể xảy ra; đầu tư công vẫn là đòn bẩy cho tăng
trưởng kinh tế, tuy nhiên thúc đẩy đầu tư công không chỉ tập trung đa
dạng hóa các dự án, mà còn cần kiểm tra, giám sát cẩn trọng, bảo đảm
tính hiệu quả về lâu dài.
Thứ hai, trong
quá trình thực hiện các điều ước quốc tế, với những cam kết về bảo vệ
môi trường, Việt Nam còn gặp khó khăn từ các vấn đề nội tại. Điển hình
như đối với vấn đề chống biến đổi khí hậu, Việt Nam vẫn chưa ban hành
khung pháp lý đầy đủ, theo quy chuẩn quốc tế để thực hiện cam kết về
chống biến đổi khí hậu.
Thứ ba, đại
dịch COVID-19 cho thấy sự mong manh, dễ đứt gãy của chuỗi cung ứng toàn
cầu. Mặc dù chuỗi cung ứng đã dần được tái cấu trúc, nhưng thực tế đa
số các doanh nghiệp công nghiệp của Việt Nam còn nhỏ lẻ, chưa thể tham
gia sâu vào chuỗi giá trị. Theo Bộ Công Thương, Việt Nam hiện nay có
khoảng 2.000 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện, trong đó chỉ có
khoảng 300 doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng. Việc ứng dụng khoa học -
công nghệ, đặc biệt là thương mại điện tử vẫn chưa được tận dụng triệt
để khiến các mô hình kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam
tiếp cận chậm với thị trường tiêu thụ, quá trình thông thương hàng hóa
chậm, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Bản chất của hoạt
động nghiên cứu sáng tạo đòi hỏi nhiều rủi ro, vì vậy các doanh nghiệp
cần chấp nhận rủi ro, đầu tư nhiều hơn vào nghiên cứu và phát triển.
Có
thể thấy, đại dịch COVID-19 tác động sâu rộng đến mọi khía cạnh của nền
kinh tế toàn cầu, với sự thay đổi nhanh chóng và đa dạng. Thương mại
quốc tế lao dốc do đứt gãy chuỗi cung ứng, ngành dịch vụ sụt giảm nặng
nề. Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ đối mặt với tác
động tiêu cực, nổi bật là tình trạng vỡ nợ, sản xuất đình trệ. Hành vi
người tiêu dùng và thương mại có xu hướng thay đổi, tính bền vững và
hiệu quả (tiêu dùng xanh, tiêu dùng tuần hoàn, giảm phát thải) trở thành
xu hướng toàn cầu. Bên cạnh những ảnh hưởng về mặt kinh tế - thương
mại, đại dịch COVID-19 đã điều chỉnh cấu trúc và đẩy nhanh xu thế thương
mại quốc tế. Những thay đổi, điều chỉnh trong thương mại quốc tế giai
đoạn hiện nay kéo theo những ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh tế,
thương mại của Việt Nam. Các xu thế thương mại mới dần xuất hiện, nổi
bật là: 1- Thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ và trở thành xu hướng
được ưu tiên; 2- Thương mại quốc tế
thúc đẩy theo hướng hợp tác về công nghệ số; 3- Thương mại hướng tới
phát triển bền vững; 4- Dịch chuyển, tái cấu trúc các chuỗi cung ứng
theo hướng tin cậy, an toàn, bền vững; 5- Ưu tiên hợp tác song phương,
khu vực và theo nhóm trong khi toàn cầu hóa chững lại. Những xu hướng
này đem lại nhiều cơ hội và thách thức cho Việt Nam; tận dụng được cơ
hội và giải quyết được thách thức sẽ thúc đẩy nền kinh tế thích ứng
nhanh chóng, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ toàn
cầu, đồng thời phát triển theo hướng bền vững, xanh và thân thiện với
môi trường./.
PGS. TS. TỪ THÚY ANH
Đại học Ngoại thương
___________________
(1) Thúy Hiền: Thách thức khi đạt tăng trưởng GDP từ 6,5-7% giai đoạn 2021 - 2025, https://www.vietnamplus.vn/thach-thuc-khi-dat-tang-truong-gdp-tu-657-giai-doan-20212025/823685.vnp.
(2) Phạm Hạnh: Thương mại toàn cầu đạt mức cao kỳ lục 28,5 nghìn tỷ đô la vào năm 2021, nhưng có thể giảm xuống vào năm 2022, https://vienthongke.vn/thuong-mai-toan-cau-dat-muc-cao-ky-luc-285-nghin-ty-do-la-vao-nam-2021-nhung-co-the-giam-xuong-vao-nam-2022/.
(3) Khối EFTA bao gồm 4 nước Thụy Sỹ, Na-Uy, Ai-xơ-len, Lích-ten-xtên.
(Nguồn: TC Cộng sản)