Chủ Nhật, 24/11/2024
Kinh tế
Thứ Hai, 1/5/2023 15:14'(GMT+7)

Thương mại quốc tế trong bối cảnh mới: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam

Bốc, xếp hàng hóa xuất khẩu tại cảng Cát Lái (Thành phố Hồ Chí Minh). (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)

Bốc, xếp hàng hóa xuất khẩu tại cảng Cát Lái (Thành phố Hồ Chí Minh). (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)

TÁC ĐỘNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ TOÀN CẦU VÀ KINH TẾ VIỆT NAM

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm. Đại dịch COVID-19 đã tác động sâu sắc đến mọi phương diện của đời sống kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, trên lĩnh vực kinh tế, đại dịch COVID-19 khiến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới sụt giảm nghiêm trọng do đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu cùng các biện pháp hạn chế di chuyển của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2020, tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu đạt 3,6% - mức thấp nhất trong vòng 50 năm qua (1970 - 2020). Trước ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, các quốc gia phải áp dụng mọi biện pháp chưa từng xuất hiện trước đó để giảm thiểu sự tác động và hậu quả của dịch bệnh, như hạn chế di chuyển quốc tế, giãn cách xã hội, tạm dừng các hoạt động tại những địa điểm kinh doanh, sản xuất... Phần lớn các quốc gia trên thế giới đều chấp nhận đóng cửa biên giới và tạm ngừng cấp thị thực cho người nước ngoài. Năm 2021, nền kinh tế thế giới đã phục hồi nhanh chóng với mức tăng trưởng đạt 5,8%(1). Thông qua chính sách bao phủ vắc-xin phòng, chống dịch bệnh cùng nhiều chương trình hỗ trợ của các liên minh khu vực và tổ chức quốc tế, đại dịch COVID-19 dần được kiểm soát. Năm 2022, kinh tế thế giới tiếp tục chịu tác động từ cuộc xung đột Nga - U-crai-na khiến nguồn nguyên, nhiên liệu rơi vào tình trạng khan hiếm trầm trọng, đẩy giá năng lượng và thực phẩm tăng cao, làm suy giảm tốc độ tăng trưởng toàn cầu và nâng dự báo lạm phát.

Là một trong những quốc gia chịu tác động của đại dịch COVID-19, các chỉ số kinh tế vĩ mô của Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt. Năm 2020, mặc dù tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 2,1%, nhưng so với năm 2019, con số này đã sụt giảm 4,1%. Năm 2021, kinh tế Việt Nam có mức tăng trưởng 2,58%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2020 và cũng thấp hơn so với mục tiêu đặt ra là 6,5%. Đây cũng là mức tăng thấp nhất của kinh tế Việt Nam trong nhiều năm qua.

Thứ hai, tỷ trọng thương mại giảm. Năm 2019, nền kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19, vì vậy tỷ trọng thương mại toàn cầu đã sụt giảm 22%; tổng sản lượng xuất khẩu toàn cầu giảm 1,4 nghìn tỷ USD. Sang năm 2020, thương mại toàn cầu bắt đầu có sự tăng trưởng nhanh chóng trở lại, đạt mức cao nhất 28,5 nghìn tỷ USD, tăng 13% so với giai đoạn trước đại dịch COVID-19(2). Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tốc độ tăng trưởng thương mại hàng hóa trong quý I và quý II-2022 tăng lần lượt 4,8% và 4,7% so với cùng kỳ năm 2021, tuy nhiên mức dự báo tăng trưởng khối lượng thương mại hàng hóa năm 2022 chỉ ở mức 3,5% và năm 2023 là 1% do những tác động liên quan đến cuộc xung đột Nga - U-crai-na và chính sách thắt chặt tiền tệ của các nền kinh tế lớn.

Cũng như các nền kinh tế khác trên thế giới, sự bùng phát của đại dịch COVID-19 từ tháng 3-2020 đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng tại Việt Nam. Các thị trường đối tác thương mại lớn của Việt Nam, như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Pháp... đều suy giảm đáng kể nhu cầu nhập khẩu. Các mặt hàng chủ lực của Việt Nam đều chịu tác động kép khi vừa cải thiện được khâu nguyên liệu đầu vào, nhưng lại vướng mắc ở thị trường đầu ra. Do vậy, tỷ trọng xuất khẩu năm 2020 sụt giảm hơn 31% so với năm 2019; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam đạt 545,36 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 282,66 tỷ USD, chiếm 51,8% cơ cấu xuất, nhập khẩu của Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19, kết quả này được coi là dấu hiệu tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam. Năm 2021, tổng sản lượng thương mại hàng hóa đạt 668,54 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu lần lượt tăng 19% và 26,5%. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong 10 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt  312,9 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2021. Các khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ghi nhận sự tăng trưởng khá đồng đều; cán cân thương mại đạt mức độ thặng dư (xuất siêu đạt 9,6 tỷ USD). Có được kết quả này chính là nhờ sự điều hành thống nhất, linh hoạt và sát sao của Chính phủ với mục tiêu “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19”. Đây là tiền đề để các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tiếp tục mang lại những kết quả khả quan trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất ổn.

Đại dịch COVID-19 đã đẩy nhanh các xu thế điều chỉnh cấu trúc và đặc điểm thương mại quốc tế bởi sự lây lan của dịch bệnh làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình mô hình hóa và đánh giá rủi ro. Trong bối cảnh đó, cấu trúc thương mại hàng hóa của Việt Nam chứng kiến sự thay đổi với sự sụt giảm rõ rệt ở các mặt hàng, như nhiên liệu, máy móc, cơ khí, thép... Trong đó, nhu cầu đối với các mặt hàng, như thuốc và thiết bị bảo hộ, thực phẩm... tăng lên nhanh chóng. Thương mại dịch vụ du lịch giảm mạnh. Năm 2020, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam giảm 78,7% so với cùng kỳ năm 2019, tổng nguồn thu từ du lịch sụt giảm. Các biện pháp ngăn ngừa sự lây lan của đại dịch đã làm giảm năng suất và khối lượng sản xuất. Chưa kể, đại dịch COVID-19 ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người lao động, gây tình trạng khan hiếm nguồn nhân lực tại các nhà máy sản xuất. Cùng với đó, lượng cung hàng hóa thiết yếu không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu của người dân. Ngoài ra, các biện pháp đối phó với dịch bệnh làm gián đoạn nhiều chuỗi sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, ảnh hưởng tới quá trình đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng, làm gián đoạn khâu sản xuất, tạo ra sự đứt gẫy trong chuỗi cung ứng.

XU HƯỚNG CHUYỂN ĐỔI CỦA THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Thứ nhất, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, thương mại điện tử tiếp tục phát triển mạnh mẽ và trở thành xu hướng ưu tiên.

Các doanh nghiệp ngày càng chú trọng mở rộng phát triển thương mại điện tử. Các hoạt động thương mại điện tử thay đổi nhanh chóng với nhiều phương thức trao đổi mới để phù hợp với hành vi của người tiêu dùng. Những năm qua, thương mại điện tử vẫn giữ tốc độ tăng trưởng ổn định, trong năm 2022 đã tăng lên mạnh mẽ với mức tăng trưởng đạt 20%. Đồng thời, trong giai đoạn 2020 - 2021, giá trị tiền mặt lưu thông có xu hướng tăng, mặc dù tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán giảm (năm 2020, tỷ lệ này là 11,66% và năm 2021 là 11,48%); hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt đạt mức tăng trưởng cao (thanh toán qua kênh internet tăng 48,8% về số lượng và 32,6% về giá trị; thanh toán qua kênh điện thoại di động tăng 76,2% về số lượng và 87,5% về giá trị); tỷ trọng các giao dịch rút tiền mặt qua máy rút tiền tự động (ATM) trên tổng các giao dịch xử lý qua hệ thống của Công ty Cổ phần Thanh toán quốc gia Việt Nam (NAPAS) giảm mạnh từ 26% (năm 2020) xuống mức 12% (năm 2021). Trong tương lai, hình thức thương mại điện tử sẽ trở thành ưu tiên của người tiêu dùng, cùng với đó, việc sử dụng tiền mặt dần sẽ được thay thế bởi phương thức thanh toán trực tuyến, góp phần thúc đẩy phát triển mạnh mẽ công nghệ tài chính (Fintech). Mặt khác, thương mại số, thương mại xuyên biên giới đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và kết nối internet. Năm 2022, nền kinh tế số của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng 28% - mức tăng cao nhất khu vực Đông Nam Á. Đại dịch COVID-19 cùng những biện pháp giãn cách xã hội đã tạo động lực cho các doanh nghiệp chủ động chuyển đổi các chức năng và nâng cao chất lượng cho khách hàng khi sử dụng các nền tảng trực tuyến.

Thứ hai, thương mại quốc tế thúc đẩy hợp tác về công nghệ số.

Bên cạnh các hiệp định thương mại tự do (FTA), các hiệp định số sẽ hình thành đối với hàng hóa và dịch vụ truyền thông. Sau ba năm thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), các doanh nghiệp Việt Nam đã khai thác hiệu quả cơ hội từ CPTPP và đạt được những kết quả tích cực. Theo báo cáo của Bộ Công Thương, năm 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên CPTPP đạt khoảng 45,7 tỷ USD, tăng 18,1% so với năm 2020. Ở chiều ngược lại, tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ các nước thành viên CPTPP đạt khoảng 45,5 tỷ USD, tăng khoảng 37,6% so với năm 2020. Trong 10 tháng đầu năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước thành viên CPTPP đạt 88,1 tỷ USD, tăng khoảng 19,2% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường các nước thành viên CPTPP đạt 45,1 tỷ USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2021. Thương mại dịch vụ kỹ thuật số được mở rộng, CPTPP nổi lên như một chuẩn mực chính sách với các hiệp định kinh tế kỹ thuật số. Việc khuyến khích sự gia tăng và áp dụng các tiêu chuẩn này có thể mở đường thúc đẩy các tiêu chuẩn kỹ thuật số được áp dụng rộng rãi và hiệu quả.

Thứ ba, thương mại hướng tới phát triển bền vững.

Các FTA thế hệ mới không chỉ giới hạn về thương mại và dịch vụ, mà còn đề cập tới lĩnh vực khác, bao gồm môi trường và phát triển bền vững. Các điều khoản về môi trường và phát triển bền vững được lồng ghép và trở thành một chương riêng biệt trong các hội nghị. Sau hai năm thực thi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), thương mại song phương Việt Nam - EU tăng trưởng rất tích cực, tuy nhiên chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu của hai bên. Thời gian qua, một số doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động xây dựng được thương hiệu riêng, cải tiến sản xuất nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường khi tham gia sâu chuỗi cung ứng của thị trường EU. Châu Âu khuyến khích việc phát triển các nguồn năng lượng xanh, năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Các doanh nghiệp châu Âu cũng mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm, công nghệ, đầu tư nguồn tài chính cho các lĩnh vực thúc đẩy tính bền vững của nền kinh tế Việt Nam. Về phía Việt Nam, một số doanh nghiệp đã chủ động nâng cao năng lực, điều chỉnh chiến lược sản xuất, kinh doanh phù hợp để nhanh chóng thích nghi và phát triển theo lộ trình xanh và bền vững. Hơn nữa, để hỗ trợ các doanh nghiệp thích ứng nhanh với tiêu chuẩn của các FTA, Bộ Công Thương đã xây dựng chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng lợi ích từ các FTA, với các hoạt động, như phổ biến, tuyên truyền các cam kết cũng như quy tắc xuất xứ; đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu trên nền tảng số, hỗ trợ kết nối giao thương; tuyên truyền và hỗ trợ doanh nghiệp phòng, tránh nguy cơ bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại khi xuất khẩu hàng hóa. Hơn nữa, với những thị trường có yêu cầu nghiêm ngặt về nguồn gốc xuất xứ nguyên liệu, các doanh nghiệp phải sử dụng nguồn nguyên liệu tiêu chuẩn nhằm đáp ứng tiêu chí xuất xứ, để xuất khẩu sang các thị trường bên ngoài được thuận lợi, mang lại hiệu quả cao và bền vững. Đây cũng là xu thế không thể đảo ngược trên toàn cầu và là yêu cầu bắt buộc để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị mới.

Thứ tư, xuất hiện sự dịch chuyển, tái cấu trúc các chuỗi cung ứng theo hướng tin cậy, an toàn và bền vững hơn.

Đại dịch COVID-19 đã tạo ra những thách thức đối với chuỗi cung ứng khi gây gián đoạn và đứt gãy chuỗi giá trị toàn cầu, đặc biệt là trong các lĩnh vực về hậu cần. Thiếu hụt chất bán dẫn, giá năng lượng tăng cao, chi phí vận chuyển tăng... đều là những lý do tạo động lực để cấu trúc hóa một mạng lưới sản xuất linh hoạt hơn. Tại Việt Nam, tiêu dùng bền vững đang ngày càng được cộng đồng người tiêu dùng và cả doanh nghiệp quan tâm hơn. Thời gian qua, đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy người tiêu dùng mua sắm có kế hoạch, có chủ đích và chuyển sang tiêu dùng bền vững, hợp lý hơn. Các mặt hàng được lựa chọn hàng đầu là thực phẩm và sản phẩm y tế bởi những mặt hàng này góp phần quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe và bảo đảm cuộc sống trước thực trạng dịch bệnh vẫn lan rộng với những biến thể nguy hiểm hơn. Mặc dù đại dịch COVID-19 mang lại nhiều bất lợi và khó khăn cho doanh nghiệp, nhưng thực tế cho thấy, đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp có thể phát triển theo hướng bền vững hơn, hướng tới các giá trị cộng đồng nhiều hơn. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã thay đổi mô hình kinh doanh, từ sản xuất đến phân phối, vận chuyển và tiêu thụ. Đây là giải pháp tối ưu giúp doanh nghiệp phát triển bền vững trong chuỗi cung ứng hiện nay.

Thứ năm, ưu tiên hợp tác song phương, hợp tác khu vực và hợp tác theo nhóm.

Đại dịch COVID-19 cho thấy mặt bất lợi của toàn cầu hóa, kích thích xu hướng bảo hộ thương mại, mặc dù toàn cầu hóa và liên kết quốc tế vẫn là xu thế khách quan. Tại Việt Nam, liên kết kinh tế quốc tế vẫn được duy trì, thúc đẩy trong bối cảnh bất ổn của nền kinh tế thế giới với nhiều yếu tố đan xen, mang tính cộng hưởng. Xu hướng khu vực hóa thương mại cũng có chiều hướng gia tăng, Việt Nam liên tục đàm phán và ký kết các FTA thế hệ mới, như EVFTA, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Chính phủ Việt Nam đưa ra những lĩnh vực tiềm năng, những hợp tác triển vọng có thể khai thác, triển khai nhằm thúc đẩy mối quan hệ song phương, đặc biệt là trong quá trình hồi phục, phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn tới khi mà đại dịch COVID-19 sẽ được kiểm soát và đẩy lùi. Việc gia tăng các liên kết kinh tế khu vực cũng thúc đẩy quá trình chuyển hướng thương mại từ các nền kinh tế ngoài khối liên kết và khuyến khích khu vực hóa dòng chảy thương mại, góp phần phục hồi kinh tế trong bối cảnh mới.

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Cơ hội cần tận dụng

Một là, trong bối cảnh hiện nay, các xu thế mới tiếp tục khẳng định định hướng ưu tiên đối ngoại của Việt Nam là đúng đắn; Việt Nam là thành viên của nhiều sáng kiến, liên kết khu vực, như Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), CPTPP, EVFTA, RCEP... Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tham gia quá trình đàm phán một số sáng kiến, hiệp định, như Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Khối EFTA(3) (VN - EFTA FTA), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và I-xra-en (VIFTA). Từ đó, quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng được sâu rộng, đa dạng hóa, đa tầng nấc. Trong quan hệ hợp tác với đối tác quy mô nhỏ, vị thế của Việt Nam được tăng cường, góp phần đưa các quan hệ song phương, tiểu đa phương đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả.

Hai là, vai trò và giá trị của khu vực châu Á - Thái Bình Dương ngày càng được củng cố thông qua các FTA song phương, tiểu đa phương và khu vực mới. Trong đó, Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng và hệ thống kinh tế - thương mại khu vực, thế giới. Việc sở hữu môi trường kinh tế vĩ mô và tình hình chính trị ổn định, với nền kinh tế năng động, thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng, môi trường kinh doanh ngày càng hoàn thiện, nhiều chỉ số về môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của Việt Nam được cải thiện đáng kể... là những thuận lợi lớn để Việt Nam nắm bắt tốt các cơ hội, thu hút các tập đoàn lớn, tập đoàn công nghệ cao có nhu cầu dịch chuyển sản xuất và chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Trong thời gian qua, đại dịch COVID-19 ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế thế giới, dòng vốn FDI toàn cầu sụt giảm mạnh mẽ. Năm 2020, mặc dù dòng vốn FDI vào Việt Nam giảm 25% so với cùng kỳ năm 2019, nhưng đến năm 2021, trong bối cảnh bất ổn của nền kinh tế thế giới, dòng vốn FDI vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng, đạt 9,1% (hơn 31 tỷ USD).

Sản xuất linh kiện điện tử tại các doanh nghiệp FDI ở Khu công nghiệp Bình Xuyên 2, tỉnh Bắc Giang. (Ảnh: TTXVN)

Ba là, thương mại số và kinh tế số trở thành động lực để phục hồi và phát triển kinh tế. Năm 2021, kinh tế số tại Việt Nam đóng góp 6% vào GDP, trong đó, lĩnh vực thương mại tăng trưởng mạnh nhất với tỷ lệ tăng hơn 50% so với cùng kỳ năm 2020; tổng lượng xuất, nhập khẩu hàng hóa cũng đạt đỉnh với 668,5 tỷ USD. Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp trong và ngoài nước đã có những biện pháp kịp thời ứng phó với đại dịch COVID-19 và tận dụng cơ hội để cải thiện hiệu quả làm việc bằng cách áp dụng công nghệ vào quá trình quản lý, sản xuất, kinh doanh... Qua đó, thương mại số giúp duy trì và phát triển chuỗi liên kết của các doanh nghiệp, của doanh nghiệp với khách hàng, góp phần không nhỏ giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực do đứt gãy chuỗi cung ứng.

Một số thách thức

Thứ nhất, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 được kịp thời kiểm soát, Việt Nam cần đưa ra những chính sách hợp lý để phục hồi nền kinh tế và chuẩn bị năng lực để ứng phó với các dịch bệnh khác có thể xảy ra; đầu tư công vẫn là đòn bẩy cho tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên thúc đẩy đầu tư công không chỉ tập trung đa dạng hóa các dự án, mà còn cần kiểm tra, giám sát cẩn trọng, bảo đảm tính hiệu quả về lâu dài.

Thứ hai, trong quá trình thực hiện các điều ước quốc tế, với những cam kết về bảo vệ môi trường, Việt Nam còn gặp khó khăn từ các vấn đề nội tại. Điển hình như đối với vấn đề chống biến đổi khí hậu, Việt Nam vẫn chưa ban hành khung pháp lý đầy đủ, theo quy chuẩn quốc tế để thực hiện cam kết về chống biến đổi khí hậu.

Thứ ba, đại dịch COVID-19 cho thấy sự mong manh, dễ đứt gãy của chuỗi cung ứng toàn cầu. Mặc dù chuỗi cung ứng đã dần được tái cấu trúc, nhưng thực tế đa số các doanh nghiệp công nghiệp của Việt Nam còn nhỏ lẻ, chưa thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị. Theo Bộ Công Thương, Việt Nam hiện nay có khoảng 2.000 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện, trong đó chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng. Việc ứng dụng khoa học - công nghệ, đặc biệt là thương mại điện tử vẫn chưa được tận dụng triệt để khiến các mô hình kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận chậm với thị trường tiêu thụ, quá trình thông thương hàng hóa chậm, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Bản chất của hoạt động nghiên cứu sáng tạo đòi hỏi nhiều rủi ro, vì vậy các doanh nghiệp cần chấp nhận rủi ro, đầu tư nhiều hơn vào nghiên cứu và phát triển.

Có thể thấy, đại dịch COVID-19 tác động sâu rộng đến mọi khía cạnh của nền kinh tế toàn cầu, với sự thay đổi nhanh chóng và đa dạng. Thương mại quốc tế lao dốc do đứt gãy chuỗi cung ứng, ngành dịch vụ sụt giảm nặng nề. Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ đối mặt với tác động tiêu cực, nổi bật là tình trạng vỡ nợ, sản xuất đình trệ. Hành vi người tiêu dùng và thương mại có xu hướng thay đổi, tính bền vững và hiệu quả (tiêu dùng xanh, tiêu dùng tuần hoàn, giảm phát thải) trở thành xu hướng toàn cầu. Bên cạnh những ảnh hưởng về mặt kinh tế - thương mại, đại dịch COVID-19 đã điều chỉnh cấu trúc và đẩy nhanh xu thế thương mại quốc tế. Những thay đổi, điều chỉnh trong thương mại quốc tế giai đoạn hiện nay kéo theo những ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh tế, thương mại của Việt Nam. Các xu thế thương mại mới dần xuất hiện, nổi bật là: 1- Thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ và trở thành xu hướng được ưu tiên; 2- Thương mại quốc tế thúc đẩy theo hướng hợp tác về công nghệ số; 3- Thương mại hướng tới phát triển bền vững; 4- Dịch chuyển, tái cấu trúc các chuỗi cung ứng theo hướng tin cậy, an toàn, bền vững; 5- Ưu tiên hợp tác song phương, khu vực và theo nhóm trong khi toàn cầu hóa chững lại. Những xu hướng này đem lại nhiều cơ hội và thách thức cho Việt Nam; tận dụng được cơ hội và giải quyết được thách thức sẽ thúc đẩy nền kinh tế thích ứng nhanh chóng, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ toàn cầu, đồng thời phát triển theo hướng bền vững, xanh và thân thiện với môi trường./.

PGS. TS. TỪ THÚY ANH
Đại học Ngoại thương

___________________

(1) Thúy Hiền: Thách thức khi đạt tăng trưởng GDP từ 6,5-7% giai đoạn 2021 - 2025, https://www.vietnamplus.vn/thach-thuc-khi-dat-tang-truong-gdp-tu-657-giai-doan-20212025/823685.vnp.

(2) Phạm Hạnh: Thương mại toàn cầu đạt mức cao kỳ lục 28,5 nghìn tỷ đô la vào năm 2021, nhưng có thể giảm xuống vào năm 2022, https://vienthongke.vn/thuong-mai-toan-cau-dat-muc-cao-ky-luc-285-nghin-ty-do-la-vao-nam-2021-nhung-co-the-giam-xuong-vao-nam-2022/.

(3) Khối EFTA bao gồm 4 nước Thụy Sỹ, Na-Uy, Ai-xơ-len, Lích-ten-xtên.

(Nguồn: TC Cộng sản)

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất