Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị nêu rõ: “Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ...".
Phấn đấu sáng tác nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư
tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng con người; vừa có
tác dụng định hướng, vừa đáp ứng nhu cầu văn hóa-tinh thần ngày càng cao
của nhân dân. Phát triển sâu rộng văn nghệ quần chúng, đồng thời với
tập trung xây dựng, phát triển văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp. Trên
cơ sở giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn học, nghệ
thuật dân tộc, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc
các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài”.
Cần thấm nhuần quan điểm đó để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng
toàn diện văn học nghệ thuật (VHNT) nước nhà trong tình hình mới.
Hòa nhịp vào sự phát triển của đất nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, VHNT đang mạnh mẽ đổi mới để xứng đáng với niềm kỳ vọng của nhân
dân. Đổi mới là tiếp thu cái tích cực, tiến bộ, loại bỏ cái lỗi thời,
lạc hậu, còn là làm sâu sắc thêm các nguyên lý, các quy luật... VHNT là
lĩnh vực tinh thần, tư tưởng, vận động theo quy luật của tình cảm nên
đổi mới về quan niệm luôn được quan tâm hàng đầu. Văn nghệ sĩ sáng tạo
dưới ánh sáng nào, với sự thúc đẩy của động lực nào là cực kỳ quan
trọng. Các văn hào lớn trên thế giới hoặc có tuyên ngôn riêng hoặc ẩn
chìm trong tác phẩm đều có quan niệm về mục đích sáng tác (vì ai, cho
ai), về chức năng (để làm gì), về phương pháp sáng tạo (hướng viết, cách
viết)... Cho nên, rất cần tôn trọng sự tự do sáng tạo nhưng phải đặc
biệt quan tâm việc bồi dưỡng tư tưởng chính trị, quan điểm, lập trường
cho văn nghệ sĩ.
Trong quá trình rèn luyện phấn đấu, tư tưởng chính trị sẽ chuyển hóa
thành tư tưởng thẩm mỹ hoặc bổ sung, tương tác, giúp đỡ nhau và nhiều
trường hợp chúng đồng nhất, hài hòa. Sáng tạo theo quan điểm của Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là sáng tạo theo tinh thần nhân
văn, tiến bộ, hoàn toàn hợp với quy luật tư tưởng và tình cảm của nghệ
thuật. Tình cảm đúng đắn nhất, chân lý nhất là tự do sáng tạo với mục
đích vì con người, vì nước, vì dân, vì chủ nghĩa xã hội, độc lập dân
tộc, dân chủ, giàu mạnh, văn minh. Trong quá khứ, cha ông ta để lại
những tác phẩm thực sự lớn lao về tầm vóc ý nghĩa, mang giá trị văn hóa
đặc sắc, đó là trước tác của Nguyễn Trãi, là thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Cao Bá Quát… Thơ văn Hồ Chí Minh có tác phẩm được xếp vào hàng
“bảo vật quốc gia”. Giải thưởng Hồ Chí Minh trao cho các tác giả có đóng
góp lớn lao trong hai cuộc kháng chiến cũng khẳng định những tác phẩm
để đời, sống mãi của họ.
Bản chất nghệ thuật là đa dạng, là nhiều tiếng nói, nhiều màu sắc nên
cần khuyến khích nghệ sĩ đa dạng hóa phương pháp sáng tác, phong phú,
sinh động hóa các hình thức biểu hiện. Sứ mệnh của văn nghệ sĩ là sáng
tạo ra tác phẩm-một “cuộc sống thứ hai”. Tác phẩm thoát thai từ đời sống
thực nhưng chỉ là mô hình của đời sống chứ không phải bản thân đời
sống. Tùy theo quan niệm, tài năng, tâm lực mà văn nghệ sĩ sáng tạo ra
những mô hình (tác phẩm) có khi vụng về nhái lại (tức phản ánh đơn giản
một chiều), có khi tinh tế làm mới, làm đẹp hoặc làm xấu… so với mô hình
gốc. Càng nhiều tài năng mới, cách làm mới sẽ có nhiều mô hình giá trị
mới. Trong hội nhập văn hóa nếu mỗi dân tộc không có cái riêng bản sắc
thì thật khó để đối thoại. Trong VHNT nếu không có nét riêng thì không
thể gọi là tác phẩm. Triết học văn hóa còn nâng nét riêng, cái khác
thành một thứ mỹ học, “mỹ học của cái khác”. Thế nên rất cần những cá
tính sáng tạo, khuyến khích những tìm tòi, thử nghiệm mới đi theo quy
luật sáng tạo nhân văn, tiến bộ, cách mạng.
Vai trò lãnh đạo của các hội chuyên ngành VHNT rất quan trọng, nhất là
tài năng tổ chức. Không chỉ là tổ chức trao đổi, gặp gỡ, thăm hỏi, cơ
bản hơn là tổ chức ra các khuynh hướng, các trường phái sáng tạo phù hợp
với sự phát triển của đất nước. Vì vậy, cần khuyến khích, đầu tư sáng
tạo các đề tài chính nằm trong dòng chủ lưu là chủ nghĩa yêu nước, là
tinh thần dân tộc... Đó có thể là đề tài chiến tranh cách mạng và lực
lượng vũ trang; đề tài trí thức trong cuộc cách mạng công nghệ; đề tài
nông dân, nông thôn; đề tài bảo vệ biển đảo, biên cương… Các trại sáng
tác nên tổ chức những đợt tập trung theo loại hình, chung chủ đề tạo
điều kiện các văn nghệ sĩ dễ dàng hơn trong việc học tập, trao đổi, giúp
đỡ lẫn nhau.
Hiện nay, các triết học trên thế giới đang rất đề cao chủ thể, vấn đề
“mỹ học chủ thể” được nói đến nhiều, vì đó là vấn đề mang tính quyết
định, trong VHNT càng rõ. Nghệ thuật là cái riêng, đơn nhất nên luôn cần
đến tài năng. Phát hiện, bồi dưỡng tài năng thế nào cùng chương trình,
nội dung đào tạo về tri thức, kinh nghiệm, vốn sống ra sao cần được quan
tâm thỏa đáng. Vốn sống không chỉ là sự trải nghiệm trong một địa
phương, ngành nghề mà phải vươn ra khắp mọi miền Tổ quốc, nơi Trường Sa
sóng vỗ, nơi biên giới ngàn trùng. Cần có những cách tổ chức phù hợp để
tạo điều kiện cho các văn nghệ sĩ được sống, hít thở, đập cùng nhịp đập
trái tim của Tổ quốc ở mọi lúc, mọi nơi.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo của các cấp ủy
đảng đối với VHNT. Vì là lĩnh vực đặc biệt tinh tế của văn hóa nên không
thể lãnh đạo theo lối áp đặt, mất dân chủ mà theo cơ chế đặc thù, động
viên khuyến khích nhưng cũng tránh buông lỏng, thả nổi. Cần sớm
việc luật hóa xuất bản, thể chế hóa dưới luật một cách cụ thể về trách
nhiệm để tránh đăng tải những văn hóa phẩm kém về chất lượng, lệch lạc
về tư tưởng.
Tăng cường hơn nữa sự định hướng của các cơ quan quản lý (cục, vụ, hội
đồng) và tiếng nói chuyên môn, chuyên gia cao (viện, trường đại học).
Những nơi đó đóng vai trò vừa là cánh tay nối dài của Đảng vừa là ngôi
nhà chung, là điểm tựa của văn nghệ sĩ về tư tưởng, tình cảm, nghiệp vụ,
đồng thời là sự khẳng định có trọng lượng học thuật cao nhất về các
hiện tượng. Như một lẽ tự nhiên, VHNT phải có người đọc/xem nên nhiều
nước phát triển có chiến lược bồi dưỡng các thế hệ độc giả/khán giả đi
cùng với việc quảng bá các sản phẩm. Dù chúng ta đi sau nhưng đó là việc
cần làm, làm bài bản, khoa học, vì mục tiêu lâu dài trên cơ sở phân
tích, khảo sát một cách hệ thống thị hiếu và tâm lý tiếp nhận, nhất là ở
thế hệ trẻ.
Bên cạnh việc tiếp thu lý luận văn nghệ thế giới, cơ bản hơn cần có
chiến lược nghiên cứu tiếp thu, kế thừa, phát triển lý luận văn nghệ của
cha ông. Về điểm này, tư tưởng Bác Hồ thật sâu sắc: “Muốn thấy hết cái
hay, cái đẹp của nghệ thuật dân tộc ta, thì phải đừng bị trói buộc bởi
những tiêu chuẩn này nọ của nghệ thuật phương Tây… phải dựa trên tiêu
chuẩn của ta. Tiêu chuẩn ấy là gì? Đó là nền mỹ học ẩn chứa trong thực
tiễn truyền thống nghệ thuật dân gian, dân tộc”. Chúng ta đang cố gắng
làm giàu thêm lý luận VHNT bằng cách tiếp thu cái hợp lý của lý luận
nước ngoài. Đấy là một hướng đi đúng. Nhưng song hành với hướng đó là đi
sâu vào vốn cổ của ta để tìm tinh hoa lý luận truyền thống cha ông mà
kế thừa, phát triển, nâng cao cho phù hợp với hôm nay./.
PGS. TS. Nguyễn Thanh Tú
(Nguồn: qdnd.vn)