I- Sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc.
Sau những biến động chính trị ở Đông Âu và Liên Xô cuối thập niên 80 đầu 90 thế kỷ trước, một chiến địch công kích, phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác-Lênin dấy lên từ nhiều phía. Kẻ thù chủ nghĩa Mác từng vu cáo, xuyên tạc, bác bỏ học thuyết cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động suốt một thế kỷ rưỡi nay, giờ đây như có được cơ hội vàng, chúng càng ra sức xuyên tạc, bác bỏ, hòng chôn vùi nó vĩnh viễn.
Trước tình hình đó, nhiều người hoang mang, giao động về lý tưởng, có người khuyên Đảng ta từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn bởi, theo họ, thời thế (thời đại) đã thay đổi. Vậy, phải chăng lịch sử đang lặp lại : đầu thế kỷ 21 dân tộc ta phải làm lại cái việc "tìm đường", "chọn đường” như đầu thế kỷ 20? Phải chăng Cương lĩnh 1991 của Đảng đã lỗi thời?
Không thể chấp nhận cái thuyết “chọn sai đường" và "giá như...". Vấn đề ở đây thật ra không phụ thuộc ý tưởng chủ quan một ai mà suy cho cùng là quyết định khách quan của chính lịch sử.
Trước khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi, không ngừng khắp Bắc, Trung, Nam. Đó là các phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế, cuộc vận động chống thuế Trung kỳ, là cuộc vận động Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, các phong trào Đông du, Tây du do các sĩ phu yêu nước chủ xướng, là cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam quốc dân Đảng tiến hành v.v... Các phong trào kể trên đều sáng ngời tinh thần yêu nước, bất khuất, song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối cứu nước. Và như vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai cấp đều đã đưa ra và được lịch sử khảo nghiệm - từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư sản, lập trường tư sản. Với đường lối của Việt Nam quốc dân Đảng theo hệ tư tưởng tư sản tưởng chừng có cái mới, tích cực nhất lúc bấy giờ, nhưng qua khởi nghĩa Yên Bái vừa bùng lên đã tắt ngấm vĩnh viễn chỉ còn để lại dư âm câu nói vô vọng của lãnh tụ Nguyễn Thái Học "sát thân thành nhân”. Rõ ràng "tình hình đen tối như không có đường ra"(1)
Trong khi đó, cuộc đời và sự nghiệp của cụ Phan Bội Châu nổi lên như một điển hình tiêu biểu, một tấm gươngphản chiếu tập trung và cô đúc con đường cứu nước mà dân tộc ta đã trải qua ở đầu thế kỷ. Phan Bội Châu đi vào lịch sử như một tiêu điểm giao thời, một nhịp cầu nối giữa hai thời đại lịch sử của dân tộc, ở chỗ Cụ là người phát ngôn cho nhu cầu lịch sử dân tộc phải chuyển sang thời đại mới của cuộc đấu tranh giải phóng. Phan Bội Châu còn xa mới hiểu thật rõ bản chất chủ nghĩa xã hội và Cách mạng tháng Mười. Dù sao, khi nghe tiếng sấm Cách mạng tháng Mười, Cụ đã có những cảm nghĩ thật xúc động trong cuốn sách "Xã hội chủ nghĩa" do Cụ viết : "May thay! Đương giữa lúc khói đục, mây mù, thình lình mà có một luồng gió xuân thổi tới; đương giữa lúc trời khuya đất ngủ, thình lình mà có một tia thái dương mọc ra, luồng gió xuân ấy, tia thái dương ấy là chủ nghĩa xã hội vậy"(2).
Nhưng con đường mới mà Cụ Phan chỉ dự cảm được ở cuối đời sau khi trải qua “một trăm thất bại không một thành công”, khi "thân đã tàn, sức đã kiệt", (lời Cụ than thở), thì chính Nguyễn Ái Quốc cùng thời không chỉ cảm thấy mà đã nhận chân một cách vững chắc, khoa học. Và, chính Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng trúng nhu cầu lịch sử dân tộc, đưa đất nước đi đúng vào quỹ đạo thời đại mới. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản", "chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ"(3). Người lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam với cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - đường lối đã đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi lên, không thế lực nào ngăn cản nổi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, nhân dân cả nước ta đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 . Sau Cách mạng tháng Tám, Đảng ta và nhân dân ta thiết tha mong muốn hoà bình để xây dựng đất nước, song bọn thực dân đế quốc đã đem quân xâm lược nước ta lần nữa. Vì độc lập tự do của Tổ quốc, nhân dân ta đã phải tiến hành 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, 30 năm chống đế quốc Mỹ. Chưa hết, 4 năm sau đó quân dân ta còn mất nhiều tháng đáp trả "bài học" dữ dội từ phương Bắc và từ biên giới phía Tây Nam. Với chiến thắng oanh liệt Mùa Xuân 1975, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ 1975 đến 1985, sự nghiệp xây dựng đạt những thành tựu nhất định. Song cũng trong thời gian này, Đảng ta đã phạm những sai lầm lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nguyên nhân do thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã tự phê bình nghiêm túc, rút ra những bài học sâu sắc, từ đó đề ra đường lối đổi mới. Đại hội VI là cột mốc lịch sử quan trọng trên con đường xây dựng và phát triển Đảng ta và đất nước ta. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X năm 2006 đánh giá công cuộc đổi mới đã giành “những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử”.
Trên đây là tóm lược cả quá trình gần 100 năm dân tộc ta đã đi qua kể từ những bước tìm đường khó khăn, gian khổ ban đầu, đến những thử nghiệm trầy trật, đắt giá, cho đến khi Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta mở ra con đường mới với đường lối xuyên suốt là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - con đường mà như đã phân tích, xét cho cùng và ngay từ đầu, phản ánh sự lựa chọn khách quan của chính thực tiễn - lịch sử.
Vậy, chỉ cần thực sự cầu thị, nhìn đúng sự thật lịch sử, thì chắc không ai đặt lại vấn đề về con đường xã hội chủ nghĩa dân tộc ta đang đi.
(Còn tiếp)