(TG) - Tranh dân gian Việt Nam có vị trí rất quan trọng trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam do tính chất lâu đời và phổ biến của nó. Tuy nhiên, trước những biến đổi cơ bản về kinh tế xã hội hiện nay ở Việt Nam, các dòng tranh dân gian truyền thống đã và đang chịu những tác động, những thách thức không nhỏ về nguyên vật liệu, về tiêu thụ sản phẩm và kế nghiệp các nghệ nhân.
Tọa đàm chuyên đề “Tranh dân gian Việt Nam, bảo tồn và phát huy giá trị”
Để góp phần làm rõ hơn những giá trị nghệ thuật dân gian của tranh dân gian Việt Nam và làm rõ những giá trị, nét điển hình có tính minh triết trong tư duy sắc bén của nghệ thuật dân gian của cha ông chúng ta, làm nền tảng cho mỗi chúng ta tiến sâu hơn kho tàng mỹ thuật của dân tộc, làm hành trang trong giáo dục nghệ thuật, chiều ngày 18/8, tại Hà Nội, Bảo tàng Hà Nội phối hợp với Bảo tàng Gốm sứ Hà Nội tổ chức tọa đàm chuyên đề “ Tranh dân gian Việt Nam, bảo tồn và phát huy giá trị”.
Chủ trì buổi toạ đàm có GS.TS Trương Quốc Bình, Nguyên GĐ Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia; PGS.TS.Phan Thanh Bình, Hiệu trưởng Trường đại học Huế cùng đông đảo các nhà nghiên cứu, phê bình, hoạ sỹ 3 miền Bắc – Trung – Nam đã tới dự.
Phát biểu tại buổi toạ đàm, ông Nguyễn Tiến Đà, Giám đốc Bảo tàng Hà Nội cho biết: Hiện nay các loại hình nghệ thuật đương đại đang phát triển nhưng làm sao để có sự gắn kết với loại hình nghệ thuật dân gian đang là một vấn đề cần được xem xét, quan tâm và đầu tư. Những giá trị biểu trưng từ tranh dân gian là một tài sản vô cùng to lớn đáng trân trọng và cần thiết phải có một chương trình nghiên cứu nghiêm túc, nhằm bảo tồn di sản văn hóa và giáo dục thẩm mỹ cho thế hệ trẻ. Việc nghiên cứu di sản văn hóa tranh dân gian của cha ông và giáo dục cho thế hệ trẻ góp phần giáo dục ý thức tự tôn, tự hào dân tộc mà mỗi thế hệ trẻ phải biết phát huy và sáng tạo, nhằm nuôi dưỡng những giá trị nghệ thuật dân gian sống mãi với thời gian.
Tranh dân gian Việt Nam nổi tiếng với dòng tranh: Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội), Kim Hoàng (Hà Tây cũ), Nam Hoành (Nghệ An), Sình (Huế)… Trong quá trình hình thành và phát triển của mỗi dòng tranh dân gian luôn tồn tại bản chất đặc trưng văn hoá, tâm linh của mỗi cộng đồng người. Tính triết lí, tư duy sáng tạo trong tranh thể hiện âm hưởng của cuộc sống của ý thức hệ của từng cộng đồng người cụ thể. Cộng đồng đời sống tự nhiên luôn là mạch nguồn định hình tư duy sáng tạo của người dân trong quá trình sống lao động bởi lẽ “con người có sức mạnh tư duy, sáng tạo trên mọi lĩnh vực cuộc sống của con người và mọi hoạt động của con người”. Người dân thông qua các hoạt động sinh sống của mình từ đó đi đến phát kiến ra những công cụ lao động, tranh ảnh và các đồ dùng sinh hoạt khác để cho ra đời những sản phẩm ngày nay chúng ta gọi là văn hoá Dân Gian (Folklore).
Sự hình thành và phát triển của mỗi dòng tranh dân gian có những thành tựu cũng như ý nghĩa tác động vào tư duy duy người thưởng ngoạn mang một giá trị riêng. Từ sự hình thành môi trường công việc, chức năng của dòng tranh và tính phục vụ của dòng tranh đã tạo nên một giá trị thẩm mĩ, phản ánh của tư duy nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Từ sự hình thành và phát triển ý thức hệ và tư duy lao động có tính vùng, miền làm cho mỗi dòng tranh dân gian có giá trị triết lý riêng biệt .
Tính minh triết trong tranh dân gian được thể hiện ở nhiều mảng chúc tụng và thờ cúng. Ở mỗi thể loại các nghệ nhân lại đi sâu khắc hoạ những nét tiêu biểu, tinh thần sinh hoạt và đời sống tâm linh của người dân vào những bức tranh. Nội dung của tranh dân gian Việt Nam có thể chia ra thành 4 nhóm: Tranh thờ: chiếm tỷ lệ lớn trong các dòng tranh dân gian Việt Nam ( Các đề tài tranh: "Vũ Đình - Thiên Ất", "Tiến Tài - Tiến Lộc", "Táo quân - Thổ công", "Ngũ Hổ"...); Tranh chúc tụng: chủ yếu là tranh chơi Tết. ("Gà - Lợn", "Thất Đồng", "Tam Đa"...); Tranh sinh hoạt: phong phú, vui vẻ, đôi khi có tính châm biếm nhẹ nhàng ("Tứ quý", "Tứ dân", "Đánh ghen", "Hứng dừa"...); Tranh minh hoạ - lịch sử: được chọn lọc để miêu tả lí thú ("Truyện Kiều", "Trê - Cóc", "Bà Triệu cưỡi voi", Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo...).
|
Tranh thờ miền núi (Ảnh: TA) |
Nhìn nhận một cách tổng quát về giá trị điển hình của nghệ thuật trong tranh dân gian tồn tại nhiều tầng thức thẩm mỹ, chứa đựng những tinh hoa và vốn quý của dân tộc, đã được sàng lọc qua bao nhiêu thời gian, đã tạo nên những giá trị riêng biệt không lẫn với bất cứ với dòng tranh nào trên thế giới.
Cùng với những đổi thay của đất nước, tranh dân gian cũng vậy, có dòng tranh thì phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có những dòng tranh nhanh chóng biến mất. Ngày nay, dù thời gian đã làm mai một đi, các dòng tranh dân gian hiện không còn ở thời kỳ cực thịnh, nhưng những giá trị to lớn của mỗi dòng tranh vẫn còn đó, nó sẽ vãn mãi là di sản của dân tộc Việt Nam.
|
Tranh Đông Hồ (Ảnh: TA) |
PGS.TS Trương Quốc Bình, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia chỉ ra những thực trạng và thách thức của tranh dân gian truyền thống phải đối mặt trong đời sống hôm nay như: Do tập quán chơi tranh và sử dụng tranh không còn phổ biến như trước đây nên nhu cầu tiêu thụ sản phẩm với số lượng lớn để duy trì hoạt động của các làng nghề là không còn nữa; nghề làm giấy dó ở Yên Thế (làng Bưởi, Tây Hồ) cũng đang mai một nên nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu để làm tranh dân gian cũng bị ngưng trệ. Việc một số hộ sản xuất đã đục bỏ các phần chữ Hán, chữ Nôm trong nhiều bức ván in đã khiến cho ý nghĩa của các bức tranh này bị ảnh hưởng, làm suy giảm tính nguyên gốc, tính hấp dẫn của những họa phẩm này; sự thay đổi trong việc sử dụng các vật liệu làm giấy (trộn màu trắng vào điệp, quét lên giấy để bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh), sử dụng màu vẽ công nhiệp trong những năm gần đây cũng tạo nên những biến đổi về chất đối với các loại tranh dân gian truyền thống; một trong những thực trạng quan trọng khác cần kể đến là cho đến nay số gia đình và nghệ nhân tranh dân gian taị các làng tranh truyền thống như Đông Hồ và Làng Sình còn lại không nhiều. Đặc biệt là, dòng tranh Hàng Trống tại Hà Nội chỉ còn lại duy nhất nghệ nhân Lê Đình Nghiên.
Theo PGS.TS Trương Quốc Bình thì chính sự truyền dạy, truyền nghề và kế nghiệp các nghệ nhân đã, đang và vẫn sẽ là những thách thức không nhỏ cho công cuộc bảo tồn các di sản văn hóa này.
Buổi tọa đàm với sự tham gia của đông đảo các nhà nghiên cứu, mỹ thuật, hội họa đến từ 3 miền Bắc- Trung- Nam sẽ góp phần làm sáng tỏ những giá trị của tranh dân gian Việt Nam. Hy vọng qua buổi tọa đàm sẽ giúp công chúng yêu nghệ thuật truyền thống hiểu sâu hơn về lịch sử hình thành và sự phát triển của các dòng tranh dân gian Việt Nam, đồng thời đề ra một số phương hướng bảo tồn và phát huy giá trị của tranh dân gian Việt Nam.
Triển lãm “12 dòng tranh dân gian tiêu biểu Việt Nam”
Cũng trong chiều 18/8, tại Hà Nội, Bảo tàng Hà Nội phối hợp với Bảo tàng Gốm Sứ tổ chức buổi triển lãm trưng bày chuyên đề “12 dòng tranh dân gian tiêu biểu Việt Nam” tới đông đảo những người yêu nghệ thuật Thủ đô, trong đó có nhiều dòng tranh tới nay đã bị mai một, thất truyền.
Triển lãm trưng bày 200 hiện vật, trong đó có 50 hiện vật của Bảo tàng Hà Nội. Điểm nhấn trong triển lãm lần này là bộ sưu tập mộc bản kinh phật,mộc bản tranh thập vật,tranh làng Sình của bảo tàng. Có thể nói, khởi nguồn của tranh dân gian chính là từ bản khắc kinh phật, hình vẽ của các vị phật trên kinh phật. Đây chính là mộc bản của tranh làng Sình và tranh thập vật được coi là một trong những hiện vật vô cùng quý giá cũng như là điểm nhấn của trưng bày lần này bởi việc sưu tập tranh thì ai cũng có thể làm được nhưng sưu tập mộc bản là điều vô cùng khó khăn.
Triển lãm giới thiệu 12 dòng tranh dân gian của nhà sưu tập Nguyễn Thị Thu Hòa- Giám đốc Bảo tàng Gốm sứ Hà Nội gồm: Tranh Đông Hồ, Tranh Kim Hoàng, Tranh Hàng Trống, Tranh Thập vật, Tranh làng Sình, Tranh Đồ thế Nam Bộ, Tranh Kính Nam Bộ, Tranh Thờ miền núi, Tranh Gói vải, Tranh Thờ đồng bằng, Tranh Vải. Bên cạnh đó triển lãm kết hợp giới thiệu bộ sưu tập tranh dân gian của Bảo tàng Hà Nội như: tranh và ván in tranh Hàng Trống; tranh thờ người Dao; tượng phật cổ… kết hợp với hoạt động trình diễn vẽ tranh dân gian dành cho khách tham quan tại khu trưng bày.
Triển lãm sẽ giúp công chúng yêu nghệ thuật dân tộc chiêm ngưỡng những dòng tranh dân gian nổi tiếng của Việt Nam, trong đó có những dòng tranh ít được biết tới hoặc đã thất truyền như: Tranh thập vật, Tranh làng Sình, Tranh kính Nam Bộ…Triển lãm cũng là một hoạt động nhằm đánh thức và lan tỏa tình yêu với nghệ thuật truyền thống nói chung, tranh dân gian Việt Nam nói riêng./.
Nhật Minh