Thứ Ba, 24/9/2024
Thời sự - Chính trị
Thứ Sáu, 30/4/2010 17:6'(GMT+7)

Trung tướng Phạm Xuân Thệ - nhân vật của ngày 30.4.1975

Tướng Phạm Xuân Thệ say sưa kể lại trận đánh. Ảnh: Việt Văn

Tướng Phạm Xuân Thệ say sưa kể lại trận đánh. Ảnh: Việt Văn

Hồi niệm chiến trận 

Ông còn nhớ trận đánh đầu tiên tham gia? Và xin hỏi thật, lần đầu ra trận ông có sợ không?

- Trận đánh đầu tiên là ngày 2.5.1968 (khi đó là lính của Đại đội 11, Tiểu đoàn 9) tập kích một đại đội lính Mỹ ở cao điểm 425 phía tây Khe Sanh. Sau khi tiêu diệt được địch và làm chủ trận địa, đơn vị đặc công và hai trung đội của Đại đội 11 rút về phía sau. (Riêng trung đội ông phải chốt giữ, đánh lui nhiều đợt bộ binh Mỹ tấn công hòng chiếm lại, suốt 2 ngày đêm). Cảm xúc lần đầu ra trận của tôi: Nửa hồi hộp, nửa lo lắng. Nhưng vào trận là quên hết lo âu, không nghĩ đến sống chết, phát hiện hỏa điểm là đánh.

Trong ký ức của vị tướng, những trận đánh hiện về:

Tháng 6.1970. Trận đánh tan 1 tiểu đoàn và sở chỉ huy nhẹ của Trung đoàn 56 ngụy vừa đổ bộ xuống cao điểm động Cô Tiên. Trận này, Bộ Tư lệnh Quân khu Trị Thiên công nhận: Đây là lần đầu tiên 1 tiểu đoàn ta đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn địch. Chính bằng hành động  xông xáo, chiến đấu dũng cảm và sự chỉ huy kiên quyết, lúc bấy giờ Phạm Xuân Thệ được báo chí và anh em trong đơn vị tôn vinh và ca ngợi là “Cơn lốc động Cô Tiên” và  được tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba.

Rồi trận đánh tháng 2.1972, Đại đội 11 của Phạm Xuân Thệ cùng với các đại đội của Tiểu đoàn 9 thực hành tiến công đánh chiếm căn cứ Mai Lộc, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch ở căn cứ Mai Lộc trong chiến dịch Quảng Trị. Với chiến thắng này, Phạm Xuân Thệ được tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất.

Nhưng trận đánh lớn của đời ông là trận Thượng Đức, cứ điểm phía tây thành phố Đà Nẵng, mà Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu gọi là “Mắt ngọc đầu rồng”, còn viên Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Đà gọi là “cánh cửa thép phía tây Đà Nẵng”. Đây là căn cứ được xây dựng công sự kiên cố và vững chắc có hầm lô cốt bêtông cốt thép được rào bằng nhiều hàng rào bao quanh, nằm án ngữ trên trục đường 14 từ Đà Nẵng đi sang biên giới Việt - Lào.

Nổ súng tấn công vào 5h30 sáng 29.7.1974, suốt mấy ngày liền, chiến đấu giằng co, quân ta gặp nhiều khó khăn. “Khi nhận nhiệm vụ xuống làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9, tôi đã hứa với các thủ trưởng trung đoàn và sư đoàn: “Nếu tôi không chỉ huy được đơn vị mở cửa vào được căn cứ Thượng Đức thì tôi sẽ không về”. Và lời hứa của Phạm Xuân Thệ đã được thực hiện. 8h30 sáng 7.8.1974, quân ta đã giải phóng hoàn toàn quận lỵ Thượng Đức, bắt sống và tiêu diệt trên 2.000 quân địch, nhưng cán bộ chiến sĩ ta cũng hy sinh 1.028 đồng chí. 

Sau một trận đánh cảm xúc của ông như thế nào?

- Cảm xúc khó tả. Vui vì địch thua, buồn nhiều vì bao đồng đội cùng nhập ngũ, sống chết có nhau, vừa cầm tay nhau mà nay đã ra đi.

Tướng Thệ bảo: Hồi đầu năm 2009, kỷ niệm 35 năm chiến thắng Thượng Đức, ông đã trở lại chiến trường xưa cùng đứa cháu nội 3 tuổi. Trước những bia mộ, ông đã rưng rưng: “Tôi về đây để tạ tội cùng anh em chiến sĩ. Vì trong chiến đấu, chúng tôi là những người chỉ huy chưa tốt, để anh em đồng đội hy sinh còn nằm rải rác ở các trận đánh, chưa về được nghĩa trang”. 

Trở lại câu chuyện ngày 30.4.1975, tướng Thệ vẫn nhớ như in thời khắc lịch sử bước vào phòng họp chính của Dinh Độc Lập trưa ngày 30.4.1975: “Dương Văn Minh nói với tôi: “Chúng tôi đã biết quân giải phóng tiến công vào nội đô, đang đợi quân giải phóng vào để bàn giao. Tôi nói: “Các ông đã bị bắt làm tù binh, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, không bàn giao gì cả”.

Sau đó, tôi đưa Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu lên phòng bá âm của đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng, lúc này chúng tôi cùng đồng chí trung tá Bùi Tùng - Chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 thảo lời tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh tuyên bố trên đài phát thanh. Sau đó, đồng chí Bùi Tùng thay mặt quân giải phóng chấp nhận lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh vào trưa 30.4.1975.

3 lần “giáp mặt” tử thần

Nhìn những vết sẹo sau gáy, trên tay và chân của tướng Thệ, người ta phải thừa nhận câu nói của ông: “Không ai tài giỏi với bom đạn đâu. May là bom đạn tránh mình đấy!”. Tránh ở đây là tránh chỗ chết người còn thì 3 lần tướng Thệ nằm viện, có lần nặng đến mức đã tưởng như rời bỏ quân ngũ về quê. Đó là lần bom Mỹ đánh sập hầm làm chết 6 đồng đội của ông, lần quả cối cá nhân M79  bắn gãy đôi khẩu AK ông cầm ở tay, lần ông dùng tay trái che đầu bị đạn 12 ly 8 bắn...Thế mà có lần chưa lành hẳn vết thương, ông đã trở lại chiến trường; ý chí đó,  quyết tâm đó là ý chí, quyết tâm của cả một thế hệ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước...”. 

Trong một trận đánh, là người chỉ huy, theo ông yếu tố gì quyết định thắng lợi?

- Có nhiều yếu tố, trong đó thời cơ nổ súng là đặc biệt quan trọng.  Phải biết chọn thời cơ nổ súng và quyết đoán trong trận đánh. Kinh nghiệm, quy luật và yếu tố linh cảm sẽ quyết định thời gian nổ súng. Có trận đánh nổ súng vào lúc 5h sáng, sẽ làm địch bị bất ngờ, nhưng có trận nổ súng vào đêm để hạn chế tầm hoạt động của máy bay địch. 

Tướng Thệ nhớ mãi câu nói của Nguyên soái Giucốp (Liên Xô - cũ) trong cuốn sách “Nhớ lại và suy nghĩ”: Ở chiến trường, người chỉ huy thêm một sợi tóc bạc thì ở hậu phương bớt đi một vành khăn tang”.

Cuộc đời của tướng Thệ kể cũng là viên mãn. Ông có một gia đình đầm ấm, hạnh phúc, người vợ là bà Nguyễn Thị Dung,  cùng quê với ông. Hai vợ chồng có 4 người con, cả trai, gái, con gái đầu làm bác sĩ quân y, con gái sau là biên tập viên Nhà xuất bản Quân đội...

Tôi hỏi ông về ý định trong một tương lai gần, liệu ông có viết lại những kỷ niệm thời chiến, bởi hơn ai hết lớp trẻ ngày nay dù muốn hay không cũng cần biết những chiến công oai hùng của dân tộc với một thế hệ anh hùng. Tướng Thệ bảo, NXB Quân đội cũng đặt hàng chính con dâu ông nghe ông kể mà chấp bút...

Trung tướng  Phạm Xuân Thệ sinh năm 1947 ở Khả Phong, Kim Bảng, Hà Nam, Nhập ngũ tháng 8.1967 khi vừa tròn 20 tuổi. Ông tốt nghiệp Học viện Quân sự chính trị tại Đà Lạt năm 1976-1977, có thời gian tu nghiệp ở Học viện Quân sự Liên Xô (cũ). Đã  chiến đấu trong 6 chiến dịch của chiến trường miền Nam, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4.1975.

Nguyên là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304, Thiếu tướng - Tư lệnh Quân đoàn 2 rồi Trung tướng - Tư lệnh Quân khu 1. Năm 2008 ông nghỉ hưu sau 42 năm trong quân ngũ. Ông đã  vinh dự nhận nhiều huân chương Chiến công, Quân công cao quý của Đảng và Nhà nước trao tặng. 


(Theo Lao Động điện tử)

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất