Truyền thông luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác Dân số và Phát triển trong tinh hình mới. Thực tế cho thấy, từ khi Chương trình Dân số Việt Nam được khởi xướng và triển khai thực hiện (26/12/1961), công tác truyền thông luôn được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và toàn xã hội trong việc triển khai, thực hiện các mục tiêu về Dân số - KHHGĐ.
Nguyên Bộ trưởng - Chủ nhiệm Uỷ ban Dân số - KHHGĐ Việt Nam, Giáo sư Mai Kỷ đã từng nói: Nhiệm vụ quan trọng nhất trong công tác Dân số - KHHGĐ là tuyên truyền, vận động để tạo nhu cầu về KHHGĐ và tổ chức hệ thống cung cấp dịch vụ KHHGĐ để đáp ứng các nhu cầu đó.Trong các Chiến lược Dân số - KHHGĐ giai đoạn 1991 - 2000; Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010 và Chiến lược Dân số và Sức khoẻ sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020 hiện nay, công tác truyền thông Dân số và Phát triển trong tình hình mới luôn được xác định là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện thành công nhiệm vụ của Nghị quyết 21-NQ/TW và Nghị quyết 137/NQ-CP.
Trên cơ sở đó, có thể khẳng định, truyền thông, giáo dục dân số và đặc biệt trong truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi đóng một vai trò hết sức quan trọng, theo đó đã tạo ra sự chuyển đổi hành vi bền vững về dân số, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, trên cơ sở cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin với nội dung và hình thức phù hợp với từng nhóm đối tượng. Chú trọng loại hình tư vấn, đối thoại, vận động trực tiếp các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, nam giới, thanh niên và người chưa thành niên.
Tập trung hoạt động truyền thông vào những vùng có điều kiện kinh tế-xã hội còn khó khăn và những đối tượng còn nhiều hạn chế về nhận thức. Mở rộng các hình thức giáo dục và nâng cao chất lượng dân số trong và ngoài nhà trường. Chính truyền thông, giáo dục dân số đã đổi mới được cách tiếp cận truyền thông, từ thông tin, giáo dục, truyền thông sang truyền thông vận động chuyển đổi hành vi và áp dụng các phương pháp quản lý truyền thông dựa trên cơ sở xác định rõ đặc điểm của từng nhóm để có cách tiếp cận phù hợp với từng nhóm đối tượng.
Nghị quyết 21-NQ/TW cũng chỉ đạo rõ: Nâng cao nhận thức, thực hành về bình đẳng giới; đẩy mạnh truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi nhằm giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh. Tạo chuyển biến rõ nét ở những vùng có tỉ số giới tính khi sinh cao.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, khơi dậy phong trào mọi người dân thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, có lối sống lành mạnh, chế độ dinh dưỡng hợp lý để nâng cao sức khỏe tầm vóc, thể lực người Việt Nam. Nâng cao nhận thức, thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về cư trú, về cấm tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống.
Đổi mới toàn diện nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản trong và ngoài nhà trường. Hình thành kiến thức và kỹ năng về dân số, sức khỏe sinh sản đúng đắn, có hệ thống ở thế hệ trẻ.
Công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục luôn được coi là mũi nhọn hàng đầu và là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công công tác DS và Phát triển. Những thành công này đã góp phần quan trọng góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước. Nghị quyết số 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII nhấn mạnh: Đổi mới nội dung tuyên truyền, vận động về công tác dân số. Nội dung truyền thông, giáo dục phải chuyển mạnh sang chính sách dân số và phát triển.
THÀNH CÔNG VÀ THÁCH THỨC TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Thực hiện Nghị quyết TW Đảng lần thứ 4 khóa VII về Chính sách DS-KHHGĐ, đến nay, công tác DS-KHHGĐ đã đạt được những kết quả quan trọng, nổi bật: Đã khống chế thành công tốc độ gia tăng dân số, sớm đạt được trước 10 năm và duy trì, ổn định được mức sinh thay thế. Cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực bước vào thời kỳ dân số vàng từ năm 2007 và dự kiến đạt đỉnh cao vào khoảng năm 2020 - 2030 với dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 70% dân số. Chất lượng dân số được cải thiện, tuổi thọ trung bình tăng từ 65,3 tuổi lên 75,6 tuổi (cao hơn các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người). Việt Nam được thế giới đánh giá là điểm sáng về công tác dân số và đã được nhận giải thưởng của Liên Hợp Quốc.
Các kết quả trên góp phần đáng kể vào việc tăng thu nhập bình quân đầu người, cải thiện đời sống nhân dân, giảm tình trạng đói nghèo, tăng cường bình đẳng giới..., đóng góp cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Để có được những kết quả trên, trong tất cả các giải pháp, quan trọng nhất vẫn là truyền thông thay đổi nhận thức, thay đổi hành vi của người dân. Trong những năm qua công tác truyền thông, chuyển đổi hành vi của ngành Dân số đã có nhiều hiệu quả. Ngành dân số có lực lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách xã và hơn 170.000 cộng tác viên dân số ở thôn, bản, xã, phường… ngày đêm bám cơ sở, tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác Dân số và Phát triển (DS&PT) tới mọi người dân. Với phương châm “Đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” và bằng sự nhiệt tình, kinh nghiệm, sự hiểu biết, kiên trì, uy tín và cách tuyên truyền phong phú của mình, họ là những mắt xích quan trọng tạo nên thành công của công tác DS&PT. Những tấm gương ấy có thể thấy được ở rất nhiều thôn, xóm, bản, làng tạo nên những kỳ tích trong công tác DS&PT. Cùng với Chiến dịch truyền thông lồng ghép đưa dịch vụ KHHGĐ đến vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, công tác truyền thông (trên các phương tiện thông tin đại chúng: Báo hình, báo viết, báo phát thanh...) đã tạo nên bước chuyển biến rất rõ rệt trong nhận thức của người dân, rất nhiều người dân đã hiểu sâu sắc hơn và tự nguyện tham gia vào công tác DS&PT.
Tuy nhiên, hiện nay, công tác DS&PT đang đứng trước nhiều thách thức, nhiều vấn đề mới nảy sinh. Đó là tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, tốc độ già hóa dân số nhanh, chênh lệch bất lợi mức sinh giữa các vùng miền; đó là vấn đề tận dụng và phát huy lợi thế cơ cấu dân số vàng khi mà chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, vấn đề truyền thông vận động và cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ… Tất cả đặt ra những nội dung mới, nhiệm vụ mới và thử thách mới cho công tác truyền thông DS-&PT.
Chuyển đổi sang nội hàm về DS&PT là một vấn để lớn và mới hoàn toàn khác với nội dung DS-KHHGĐ. Do vậy công tác truyền thông vận động cần được triển khai sớm và đổi mới cả về nội dung và phương pháp truyền thông vận động”. Ông Nguyễn Doãn Tú, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số khẳng định, hơn 57 năm qua, truyền thông giáo dục nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vi là một trong hai hoạt động có sức mạnh nhất, quyết định đến sự thành công của công tác DS&PT. Trong giai đoạn hiện nay, công tác này càng được chú trọng và để triển khai có.
Hiện chúng ta kết thúc giai đoạn một và bước sang giai đoạn hai thực hiện Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 – 2020. Do đó, công tác truyền thông giáo dục phải có sự chuyển hướng vô cùng linh hoạt. Cách thức truyền thông cũng cần phải thay đổi, không chỉ tiếp cận với người dân mà với cả những người trí thức, những người có điều kiện kinh tế… để họ thấy được những hiệu quả thiết thực của sàng lọc trước sinh và sơ sinh, tự nguyện tham gia dịch vụ đó bằng chính nguồn lực và sự hiểu biết của họ.
Thông điệp truyền thông cho người dân cũng có thay đổi, không còn là “sinh từ 1 đến 2 con” mà đối với những nơi mức sinh đang xuống thấp thì cần vận động người dân “sinh đủ 2 con”. Đối với những nơi điều kiện KT-XH còn nhiều khó khăn có mức sinh cao, thậm chí rất cao, vẫn phải tiếp tục vận động giảm sinh để đưa về mức sinh thay thế.
Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay truyền thông và giáo dục về DS&PT phải luôn luôn đi trước một bước, mỗi địa phương cần lựa chọn đúng mô hình, phương tiện, hình thức, đối tượng để có phương thức thực hiện hiệu quả. Đồng thời tham mưu để các cấp lãnh đạo hiểu được, đưa ra được quyết sách đúng đắn, hợp lý cho công tác DS&PT cả về nguồn lực, tổ chức bộ máy cùng với sự huy động cả xã hội cùng tham gia. “Khi chúng ta đánh thức được nhận thức của cả hệ thống chính trị thì công tác truyền thông giáo dục nói chung, của ngành Dân số sẽ thành công”.
Trên thực tế, trong lịch sử truyền thông về công tác dân số, Việt Nam chúng ta bắt đầu từ năm 1992 đã có Chiến lược truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi về Dân số, Sức khỏe sinh sản, Kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 1992 - 2000, giai đoạn 2001 – 2005 và giai đoạn 2006 – 2010. Và từ khi có Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về Chính sách Dân số và Kế hoạch hóa gia đình số 04-NQ/HNTW ngày 14/01/1993. Lần đầu tiên, ngày 03/6/1993 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 270 về việc phê duyệt Chiến lược Dân số và kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 1993 - 2000, tiếp theo Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010 và Chiến lược Quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001 - 2010, và hiện nay là Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
Như vậy, có thời điểm Chiến lược trong Chiến lược. Song đến giai đoạn 2011 – 2015, do Quốc hội yêu cầu bỏ Dự án về truyền thông về DS-KHHGĐ nên chúng ta không xây dựng Chiến lược truyền thông giáo dục. Mặt khác, từ khi Chính phủ đưa công tác DS-KHHGĐ về Bộ Y tế, Bộ đã chỉ đạo về tầm vĩ mô chỉ có một chiến lược lớn duy nhất, không nên có chiến lược nhỏ nằm trong chiến lược lớn như trước đây. Vì vậy, ngày 14/11/2011 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 2013/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, sau Chiến lược thì có các Chương trình hành động. Do đó, ngày 13/12/2011 Bộ trưởng Bộ Y tế đã có Quyết định số 4669/QĐ-BYT phê duyệt Chương trình hành động Truyền thông chuyển đổi hành vi về Dân số - Kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2011-2015.
Cho đến hiện tại, NQ 137/NQ-CP của Chính phủ đã yêu cầu chúng ta sớm xây dựng Đề án về Truyền thông Dân số đến năm 2030 là một kế hoạch lớn (chiến lược) vì truyền thông về DS&PT luôn có một vị trí rất quan trọng cần phải đạt được đích của nó là: “Vận động giáo dục, truyền thông chuyển đổi hành vi về Dân số và Phát triển nhằm tạo sự đồng thuận của toàn xã hội nhằm chuyển đổi nhận thức, thái độ, thực hiện các hành vi có lợi bền vững về DS&PT, góp phần nâng cao chất lượng dân số, phát huy lợi thế cơ cấu “dân số vàng” chủ động điều chỉnh tốc độ tăng dân số và kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh, đảm bảo thực hiện thành công Nghị quyết 21-NQ/TW./.
Bác sỹ Mai Xuân Phương, Phó Vụ trưởng Vụ Truyền thông và Giáo dục, Tổng cục Dân số, Bộ Y tế.