Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, từ xưa đến nay, đã có nhiều học thuyết, tư tưởng đề cập đến số phận con người, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của con người muốn được giải phóng khỏi những bế tắc trong cuộc sống đời thường, giải thoát khỏi những ràng buộc hà khắc, ngặt nghèo của tự nhiên, xã hội và của chính bản thân con người. Đó chính là tư tưởng nhân văn, nhân đạo được thể hiện ở những mức độ, trình độ khác nhau, tiếp cận từ những giác độ, bình diện khác nhau(1). Xét về thực chất, nhân văn là một giá trị mang tính phổ quát, tổ hợp các yếu tố Chân - Thiện - Mỹ. Nó thuộc bản chất người và là hiện thân của thiên hướng vươn lên và hoàn thiện không ngừng của chính con người. Vì thế, nhân văn bao giờ cũng là lý tưởng và mục tiêu mà loài người hằng vươn tới; nó tồn tại và biến thiên, ngày càng thể hiện sức sống mãnh liệt của mình trong suốt tiến trình đi lên của xã hội loài người.
Mặc dầu là một giá trị phổ quát, nhân văn và tư tưởng nhân văn bao giờ cũng mang những đặc điểm địa - văn hóa theo nghĩa: Ở đâu có điều kiện thì ở đó tư tưởng nhân văn nảy nở và phát triển; mặt khác nó lại được thể hiện qua lăng kính của nhà văn hóa, nhà tư tưởng nên mang đậm dấu ấn cá nhân. Nghiên cứu tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đều dễ nhận thấy những đặc điểm chung đó, nhưng lại vừa phát hiện ra các đặc điểm bản chất đặc thù mà không có một học thuyết, tư tưởng nhân văn nào trước đó đạt tới.
Quan niệm về tư tưởng và giá trị nhân văn Hồ Chí Minh
Như chúng ta đều biết, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao gồm nhiều bộ phận hợp thành. Về nội dung, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thật rộng lớn, bao quát hết các mặt bản chất con người, đời sống cá nhân và đời sống cộng đồng, môi trường tồn tại, các nhu cầu thể hiện và khát vọng làm chủ mọi mặt cuộc sống v.v...; về hình thức thể hiện, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh rất phong phú, đa dạng, rất cô đọng, khái quát, lại rất cụ thể mà không hề trừu tượng, gần gũi với cuộc sống làm người và ai cũng có thể áp dụng được để tự hoàn thiện tính người, hoàn thiện nhân cách làm người.
Một số người đặc biệt nhấn mạnh tới cuộc đời "vì nghĩa quên mình", sống khiêm tốn, bình dị, hòa nhập với mọi người, không màng danh lợi cho bản thân của mình và xem đó là nội dung cốt lõi của tư tưởng và giá trị nhân văn Hồ Chí Minh. Có nhà nghiên cứu lại cho rằng chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh toát ra từ cuộc đời liên tục đấu tranh không biết mệt mỏi của Người nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để cuối cùng đi đến giải phóng con người(2). Nói cách khác, theo các tác giả trên thì đạo đức, nhân cách và cuộc đời thanh bạch của Hồ Chí Minh là một trong những nội dung quan trọng làm thành tư tưởng, giá trị nhân văn của Người.
Trong nghiên cứu về tư tưởng, giá trị nhân văn Hồ Chí Minh còn xuất hiện một số ý kiến khác của nhiều học giả, các nhà hoạt động chính trị, xã hội nước ngoài. Họ cho rằng, trong con người Hồ Chí Minh có sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa nhân văn với nhiệt tình và tinh thần cách mạng. T.N. Kaun, Chủ tịch Trung tâm Ấn Độ nghiên cứu về Đông Dương đã cho rằng: "Bác Hồ..., Người đại diện cho sự vĩ đại vốn có của nhân dân Việt Nam, bình dị, chuyên cần, yêu quý trẻ thơ và thanh niên, thẳng thắn, trung thực, chân thành và một ý thức mạnh mẽ về nhân văn kết hợp với nhiệt tình có tinh thần cách mạng"(3). Còn Tiến sĩ M.Atmét, Giám đốc UNECCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng nói đại ý: Trong khi chiến đấu cả đời mình chống lại ách thống trị thực dân, Người vẫn là một nhà nhân văn chân chính trong tư tưởng và hành động.
Rõ ràng, ở đây cần phân biệt tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với nhân cách và hành động cách mạng của Người. Đương nhiên, tư tưởng nhân văn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và chính cuộc đời của Người lại là một tấm gương, một biểu hiện cụ thể, tiêu biểu nhất của chủ nghĩa nhân văn cao cả.
Từ việc nhận thức khái quát quá trình hình thành, phát triển, các nội dung chủ yếu tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, có thể hình dung diện mạo của tư tưởng đó, chúng tôi cố gắng đi vào xác định khái niệm khoa học. Việc định nghĩa khái niệm "Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh" phải xuất phát từ định nghĩa khái niệm rộng lớn hơn "Tư tưởng Hồ Chí Minh" và góp phần vào việc cụ thể hóa, xác định rõ hơn khái niệm này. Khi định nghĩa khái niệm "Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh", chúng tôi dựa vào các nguyên tắc phương pháp luận mácxít. Một là, làm rõ nội hàm với những đặc trưng cơ bản của khái niệm. Công việc này được tiến hành trên cơ sở tài liệu, sự kiện chính xác và cần đến các khái quát lý luận khoa học, những nhận định mang tính lý thuyết, quan điểm. Hai là, phải rút ra cái cốt lõi, bản chất của sự kiện, những quy luật vận động tác động đến nó. Ba là, mối quan hệ giữa nội dung tư tưởng với thực tiễn cuộc sống.
Từ những yêu cầu trên, khái quát các kết quả nghiên cứu đạt được, chúng tôi quan niệm rằng: "Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành, xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm hệ thống các quan điểm lý luận được rút ra từ thực tiễn cách mạng, từ sự kế thừa và phát triển những giá trị nhân văn của dân tộc và thời đại mà đỉnh cao là chủ nghĩa nhân đạo Mác - Lênin, phản ánh tình yêu thương, quý trọng, quan tâm, bao dung, độ lượng đến con người và niềm tin vững chắc vào sức mạnh của con người; phản ánh con đường giải phóng con người một cách triệt để nhằm xây dựng một chế độ xã hội trong đó con người có điều kiện phát triển toàn diện và phát huy hết mọi năng lực sáng tạo vốn có của mình".
Việc định nghĩa khái niệm "Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh" như vậy, theo chúng tôi, nêu bật được các yếu tố: Nguồn gốc lý luận của khái niệm; Các bộ phận cấu thành nội dung khái niệm trong một chỉnh thể mang tính hệ thống; Những đặc trưng, mục đích và nội dung cốt lõi của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Đây cũng chỉ mới là ý kiến ban đầu, còn phải tiếp tục nghiên cứu và bổ sung để tiến tới có một khái niệm hoàn chỉnh khoa học.
Vấn đề đặt ra ở đây là: Thế thì nội dung, giá trị cốt lõi của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là gì? Nó có trùng hợp với nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung: Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người? Ở đây, chúng ta có thể trả lời câu hỏi đó theo gợi ý và phương pháp luận của Ph.Ăngghen khi nói về chủ nghĩa Mác.
Vào những năm đầu thập kỷ 90 thế kỷ XIX, khi chuẩn bị xuất bản các tác phẩm của C.Mác với tư cách là một vĩ nhân của thế giới, một giám đốc nhà xuất bản của Ý đã trực tiếp hỏi Ph.Ăngghen: Luận điểm nào của C.Mác thể hiện chính xác, tập trung, nổi bật nhất tinh thần cơ bản của chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa nhân văn mácxít? Ph.Ăngghen không cần phải suy nghĩ lâu để trả lời và nói rõ đó là một luận điểm được trình bày trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" (1848) khi nói về chủ nghĩa cộng sản như là một chế độ xã hội, trong đó "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người"(4).
Ở đây, cần lưu ý một điều rất quan trọng: Trong luận điểm nổi tiếng này Ph.Ăngghen đã nhìn thấy hạt nhân và chìa khóa của thế giới quan cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và phải hiểu luận điểm đó một cách đầy đủ, trọn vẹn theo nghĩa: Không chỉ sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người, mà sự phát triển tự do của cá nhân chỉ có thể được thực hiện khi xã hội được giải phóng khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, nô dịch và tha hóa. Sự phát triển tự do của cá nhân và sự phát triển tự do của xã hội, vì thế, có quan hệ biện chứng và mang tính chế ước lẫn nhau. Không thể có tự do cá nhân thật sự trong một xã hội còn có sự thống trị của chế độ tư hữu, người sản xuất bị tước đoạt và tách biệt hẳn khỏi các điều kiện và công cụ lao động.
Vào đầu thế kỷ XX, khi V.I.Lênin và Plêkhanốp soạn thảo Cương lĩnh đầu tiên của Đảng dân chủ - xã hội Nga, V.I. Lênin đề nghị cần phải đưa luận điểm đó của "Tuyên ngôn" vào Cương lĩnh chính trị của Đảng. Cũng như C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin nhìn thấy trong việc phát triển tự do, toàn diện của con người, năng lực và tài năng của nó mục đích cơ bản và sự giàu có chủ yếu của xã hội tương lai. Các ông đồng nhất chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa nhân đạo ở mức độ hoàn bị nhất.
Sau "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" gần một trăm năm, vào năm 1946, khi trả lời các nhà báo nước ngoài về các điều kiện thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình"(5)
Các tư liệu lịch sử cho phép chúng ta khám phá ra một điều khá thú vị: Sự thống nhất của các nhà kinh điển Mác - Lênin và Hồ Chí Minh về mục tiêu phát triển của chế độ xã hội tương lai: Hướng vào sự phát triển tự do toàn diện của con người và đó là một nhu cầu khách quan, có thể sớm hay muộn, nhanh hay chậm do đặc điểm dân tộc và thời đại chi phối, nhưng chắc chắn cuối cùng nhân loại sẽ vươn tới xác lập được một xã hội như vậy, một xã hội do con người làm chủ chính đời sống con người.
Tinh thần này được Hồ Chí Minh diễn đạt bằng một phương châm khái quát, ngắn gọn: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do"; độc lập, tự do cho cả dân tộc, cho mỗi cá nhân và cho cả loài người. Với nghĩa đó, độc lập, tự do trở thành bản chất, giá trị cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hy sinh cống hiến của Người. Vì đó là cái tiên quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam, cho mỗi người dân và cho cả cộng đồng nhân loại.
Một số đặc trưng chủ yếu của giá trị nhân văn Hồ Chí Minh
Khảo sát quá trình hình thành và phát triển, các nội dung chủ yếu và phương pháp hành động biện chứng Hồ Chí Minh, chúng tôi thấy rằng giá trị nhân văn Hồ Chí Minh có một số đặc điểm tổng quát phản ánh quy luật vận động của lý tưởng nhân văn của loài người, lại rất riêng có của Hồ Chí Minh.
Một là, giá trị nhân văn Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới giá trị nhân văn truyền thống Việt Nam, tinh hoa nhân văn của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Một điểm dễ thống nhất với nhau là: Sở dĩ tư tưởng Hồ Chí Minh hiện thân khát vọng thể hiện các giá trị làm người cao quý, là linh hồn, là ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lương tâm của thời đại, có sức sống bền vững và có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân Việt Nam và của nhân dân nhiều dân tộc trên thế giới, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, chính là vì tư tưởng của Người đã kế thừa những giá trị tư tưởng, văn hóa "vĩnh cửu" của nhân loại thấm đượm một chủ nghĩa nhân văn cao cả, đáp ứng những yêu cầu, nguyện vọng cháy bỏng và sâu xa của dân tộc và nhân loại.
Nói về thái độ của mình đối với một số học thuyết và tôn giáo lớn trên thế giới, chính Hồ Chí Minh đã xác nhận: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn "mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội". Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy"(6).
Lời nói trên đây nổi lên hai khía cạnh đáng lưu ý: 1) Khi nhận xét các nhà tư tưởng tiền bối, Hồ Chí Minh đã chỉ ra được điểm tương đồng, cốt lõi trong tư tưởng của họ, hạt nhân đó không có gì khác hơn là tinh thần nhân văn, tư tưởng nhân văn. Hồ Chí Minh đã thâu thái, tích hợp giá trị nhân văn của loài người thành tư tưởng nhân văn của chính mình. Vì thế, sự kế thừa và chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại ở Hồ Chí Minh là nhằm chủ đích nhân văn. 2) Các giá trị nhân văn của nhân loại chỉ có thể phát tán và thăng hoa trên một cái nền gốc mà Người đã chuẩn bị trước đó: Truyền thống nhân văn lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Sống trong cảnh nô lệ lầm than, người dân bị áp bức, bóc lột thậm tệ, đất nước bị ngoại bang giày xéo, Hồ Chí Minh, một thiên tài nhạy cảm như được đúc kết nên từ tinh hoa truyền thống của dân tộc Việt Nam đã nhận ra thực tế vô nhân đạo do thực dân đế quốc gây nên. Chính đó là bản chất, là mạch sống căng đầy chất nhân văn ở con người Hồ Chí Minh. Sau này, khi bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm đường cứu nước cứu dân, nhằm xóa bỏ thực tế bất nhân đó, được sống trong nhiều nền văn minh của các dân tộc khắp các châu lục, được tiếp xúc với tư tưởng vĩ đại của Mác, Ăngghen, Lênin, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh càng rõ hơn, trở thành lý luận, thành chủ nghĩa vững chắc. Rõ ràng, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bắt nguồn từ bản chất nhân văn Việt Nam, nó nằm trong bản chất con người Hồ Chí Minh với tư cách là tinh hoa đất nước, con người Việt Nam.
Đứng trên truyền thống nhân văn Việt Nam, trước thực trạng đất nước mất độc lập, chủ quyền, Hồ Chí Minh đòi thực hiện yêu cầu nhân bản bao quát nhất: Đòi cho con người được hưởng những gì vốn có, đó là quyền sống, quyền làm người, quyền độc lập tự do; phải trả lại độc lập cho nhân dân Việt Nam để con người Việt Nam làm chủ đất nước mình, tự mình xây dựng cuộc sống. Đưa con người trở về với chính con người, đó là tư tưởng nhân văn cơ bản, điều mà từ thời cổ đại Arixtốt là từng mong muốn. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh kêu gọi xóa bỏ nô lệ, áp bức, bần cùng, đối xử với con người như là con người chân chính.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi Người hội tụ được các tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại: Văn minh châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, với các hệ tư tưởng nhân văn Phục hưng, Khai sáng, tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng Ý, Pháp... Đặc biệt, tư tưởng nhân văn đó trở thành lý luận khoa học, như một lý thuyết vững chắc khi người gặp tư tưởng cộng sản chủ nghĩa với các lãnh tụ thiên tài C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin.
Tư tưởng cộng sản chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh nâng những yêu cầu có tính nhân bản lên tầm cao đó là tính nhân văn thực thụ. Tính nhân văn ở đây không còn bị giới hạn trong khuôn khổ giải quyết vấn đề vị trí của con người, tách con người khỏi kiếp ngựa trâu do chế độ nô lệ kìm kẹp, làm cho bị tha hóa, mà là giải quyết vấn đề xây dựng vị thế con người trong xã hội mới. Tư tưởng của Người lúc này không chỉ là xóa bỏ tình trạng tha hóa, đưa con người về đúng vị trí của mình mà là phát huy mọi tiềm năng của con người để xây dựng một cuộc sống mới. Thực hiện tư tưởng nhân văn tư bản chủ nghĩa - tự do, bình đẳng, bác ái, từng bước thực hiện lý tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, tiến tới một xã hội cộng đồng và hòa nhập, ở đó con người không chỉ có điều kiện để phát huy mọi tiềm lực, tài năng xây dựng xã hội mới, mà còn phát triển toàn diện, hài hòa chính bản thân con người với tư cách là mục đích tối cao của con người. Đây là tính nhân văn cao nhất của con người, của xã hội loài người trên phương diện lý thuyết. Tư tưởng này ở tầm cao hơn, sâu hơn còn bởi vì nó mở ra tính nhân văn vĩ đại của chủ nghĩa cộng sản, về phương hướng thực hiện mục đích tối cao của con người: Con người là mục đích của sự phát triển lịch sử, của mọi hoạt động của chính mình.
Hai là, giá trị nhân văn Hồ Chí Minh mang tính khoa học, cách mạng và hiện thực sâu sắc. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực, cách mạng. Người ta thường nói, Hồ Chí Minh là một nhà triết học hành động, thì cũng có thể nói nhà nhân văn Hồ Chí Minh là một nhà nhân văn hành động, hành động nhằm giải phóng con người.
Tinh thần nhân văn đặc sắc của Hồ Chí Minh thể hiện ở khát vọng biến tư tưởng thành hiện thực trên cơ sở một sự hiểu biết chắc chắn các điều kiện hiện tại và quy luật xã hội đặc thù của một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu. Cốt lõi thế giới quan duy vật, phương pháp khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa được Hồ Chí Minh chuyển hóa thành một tổ hợp tư tưởng Mác - Lênin - Hồ Chí Minh, rồi nó lại được thăng hoa, biến hóa thành một chất tư tưởng mới rất riêng, ở đó hòa quyện chiều sâu lý luận với sinh khí cuộc sống. Tiếp thu bản chất cách mạng, tinh thần cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh thực hiện khát vọng cháy bỏng của mình là biến tất cả tình thương người, tình yêu cuộc sống, khát vọng xây dựng tương lai thành hành động để đưa những tư tưởng, lý tưởng, ước mơ đó thành hiện thực.
Để thực hiện lý tưởng nhân văn "không có gì quý hơn độc lập, tự do", Hồ Chí Minh đã nghiên cứu bản chất thật sự của chủ nghĩa thực dân, phát hiện các mâu thuẫn trong lòng nó, nắm bắt thấu đáo nhu cầu phát triển khách quan của xã hội Việt Nam, xu thế vận động của thế giới, khảo cứu các cuộc cách mạng điển hình để vạch ra con đường đi cho cách mạng Việt Nam: Con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ thực tiễn xã hội Việt Nam, vận dụng sáng tạo phương pháp hành động biện chứng mácxít, Hồ Chí Minh đã luận chứng một cách khoa học mục tiêu phát triển con người chỉ có thể đạt được thông qua thực hiện "ba cuộc giải phóng": Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Ba cuộc giải phóng đó vùa kết hợp chặt chẽ với nhau, lại vừa nối tiếp nhau trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Sự kết hợp chặt chẽ được thể hiện ở chỗ trong giải phóng dân tộc đã có một phần giải phóng giai cấp và giải phóng con người; sự nối tiếp được thể hiện ở chỗ giải phóng dân tộc sẽ mở đường cho giải phóng giai cấp và giải phóng con người được đẩy mạnh.
Xét về lý tưởng nhân văn, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người Việt Nam trong giải phóng dân tộc là cả cộng đồng dân tộc Việt Nam đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân để giành độc lập dân tộc. Con người trong giải phóng giai cấp là các giai cấp cần lao, trước hết là công - nông, đấu tranh để xây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa. Còn con người trong giải phóng con người là mỗi con người, với tính cách là cá nhân, phải được giải phóng khỏi mọi sự áp bức, bất công, được tự do hạnh phúc, được phát triển về mọi mặt, được làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên, làm chủ bản thân mình; bằng cách đó tạo điều kiện cho con người thoát khỏi mọi sự tha hóa để có thể trở về bản chất người tốt đẹp nhất.
Tính chất thực tiễn cách mạng của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh quy tụ ở mục đích của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng là xây dựng một xã hội mới không còn áp bức, bóc lột, bất công; một xã hội giàu mạnh, công bằng, văn minh; với những con người mới có phẩm chất cao đẹp, có trình độ phát triển toàn diện. Những con người được đào tạo, giác ngộ đó chính là động lực quyết định nhất của sự phát triển: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa"(7). Con người xã hội chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện, hoàn toàn đi đến không có chủ nghĩa cá nhân, nghĩa là loại bỏ được mọi sự tha hóa dai dẳng nhất, nguy hại nhất của chính bản thân con người.
Một xã hội đáp ứng được các nhu cầu giải phóng con người, tạo cho con người phát triển toàn diện chỉ có thể là chế độ xã hội chủ nghĩa. Lý tưởng nhân văn thực tiễn, đầy sinh khí hiện thực được Hồ Chí Minh biến thành mục tiêu cách mạng xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Với sức mạnh khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, với niềm tin sắt đá tới tương lai và có ý chí quyết tâm của người cộng sản, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm nên những chiến công hiển hách. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thấm sâu trong đường lối của Đảng, là ngọn cờ chiến đấu của toàn dân tộc, hướng dẫn nhân dân ta thực hiện thành công Cách mạng tháng Tám chấn động địa cầu và đại thắng mùa xuân 1975 lịch sử. Đó là chiến thắng của sức mạnh con người Việt Nam, chiến thắng của văn hóa Việt Nam mà cốt lõi là tư tưởng nhân văn với sức sống bất tận của nó.
Sau khi đất nước được giải phóng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ thì nhiệm vụ tiếp theo của dân tộc ta là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đó là lôgíc tất yếu của lý thuyết phát triển theo hướng nhân văn, bởi lẽ, chủ nghĩa xã hội là xã hội phù hợp với bản chất con người, là xã hội tốt đẹp nhất; về phương diện lịch sử tiến hóa văn minh vật chất, chủ nghĩa xã hội là sự phủ định biện chứng các hình thái xã hội đã từng tồn tại trước đó, tận dụng các thành quả đã có để có thể thỏa mãn đến mức tối đa các nhu cầu thiết yếu mang tính "trần thế" của con người, nghĩa là trả lại cho con người những giá trị vật chất mà chính nó đã sáng tạo ra. Sản phẩm do con người tạo ra phải thuộc về bản thân con người. Chân lý đơn giản đó người ta đã nghĩ đến từ thời cổ đại, nhưng phải mất một quãng đường rất dài, nhân loại mới xác lập các tiền đề vật chất hiện thực cho sự sinh thành, phát triển một xã hội như vậy. Về phương diện văn hóa, chủ nghĩa xã hội là kết quả đấu tranh không ngừng của con người theo hướng tiến về phía Chân - Thiện - Mỹ; nó là một trình độ phát triển cao của văn hóa, văn minh; văn hóa hiểu theo nghĩa là trình độ người, bản chất người của toàn bộ hệ thống các quan hệ xã hội. Trên cả hai bình diện đã nêu, không có chế độ xã hội nào tốt đẹp hơn chủ nghĩa xã hội!
Chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân xây dựng không phải là một thứ chủ nghĩa xã hội cục bộ, cực đoan, hẹp hòi, vị kỷ của một giai cấp, một đảng phái. Mục tiêu và phương thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Hồ Chí Minh cũng không chỉ là chuyên chính, phá bỏ, cũng không phải là chủ nghĩa mơ hồ, không tưởng như nhiều người, nhiều đảng đương thời trên thế giới quan niệm. Ngay cả đối với giai cấp tư sản dân tộc, Hồ Chí Minh cũng có thái độ rất rõ ràng, coi họ cũng là một lực lượng cần có trong xây dựng chế độ xã hội mới. Người khẳng định: "Không nên coi giai cấp tư sản dân tộc là đối tượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, bởi họ đã đi cùng với giai cấp công nhân trong cách mạng dân tộc dân chủ. Nên coi họ là đồng minh, cải tạo họ thành người lao động và khi cải tạo nên dùng các phương pháp dân chủ, không phải chuyên chính với họ"(8).
Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa xã hội hiện thực, cụ thể, nó phải được xây dựng trên mảnh đất của một quốc gia gắn liền với đặc điểm lịch sử, truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc. Chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh xây dựng ở Việt Nam là một xây dựng mới công bằng, nhân đạo, tốt đẹp, nhằm mục tiêu cụ thể là dân giàu nước mạnh, xã hội văn minh, con người hạnh phúc.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh lãnh đạo thực sự là một cuộc cách mạng giải phóng, phát triển mọi tiềm năng dân tộc và tiềm năng xã hội, cụ thể là giải phóng và phát triển con người. Đó là một sự nghiệp của chính con người vì bản thân con người để đạt tới cả hai loại giá trị: Độc lập dân tộc và cuộc sống ấm no. Theo Hồ Chí Minh, con người không chỉ được giải phóng về mặt xã hội mà điều chủ yếu và cuối cùng là giải phóng, phát triển toàn bộ bản chất, bản tính tốt đẹp của mình. Bản chất sâu xa lớn lao trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là tất cả cuối cùng đều vì sự phát triển con người Việt Nam. Xóa bỏ tha hóa, trả lại cho con người Việt Nam phẩm chất, phẩm giá làm người, giải phóng toàn bộ tiềm năng thể chất, trí tuệ, tài năng sáng tạo của con người Việt Nam; tạo mọi điều kiện cho con người Việt Nam phát triển toàn diện, hài hòa: Đức - Trí - Thể - Mỹ, vươn tới sự hoàn thiện nhân cách. Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến thanh thiếu niên, tương lai của đất nước, mùa xuân của nhân loại. Người cho rằng "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng, rất cần thiết". Đảng, Chính phủ phải chăm lo giáo dục các cháu về thể dục, đạo đức, trí dục, làm sao phát triển hết toàn bộ năng lực sẵn có của các cháu để họ thật sự xứng đáng là người thừa kế xây dựng chủ nghĩa vừa "hồng", vừa "chuyên".
Ba là, giá trị nhân văn Hồ Chí Minh mang bản chất giai cấp công nhân, thống nhất trong đó tính giai cấp công nhân với tính dân tộc và tính quốc tế.
Trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, lòng nhân ái giữ vị trí hàng đầu, song nó không bó hẹp lòng thương người ở tình nghĩa đồng bào, những "người trong một nước phải thương nhau cùng", mà mở rộng đến khắp năm châu bốn biển. Người luôn coi con người và cuộc sống ở bất cứ nơi đâu đều là giá trị cuối cùng và cao nhất phải đấu tranh giành được.
Khác với chủ nghĩa nhân văn tư bản chủ nghĩa cực đoan chỉ đề cao chủ nghĩa cá nhân mà không hề đả động đến con người lao động, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đề xướng việc giải phóng hoàn toàn con người, mà trước hết là chủ yếu là giải phóng con người lao động bị áp bức bóc lột, thủ tiêu mọi gông xiềng, nô lệ, bất công, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc, cơm no, áo ấm cho các dân tộc và mỗi con người. Tính giai cấp công nhân gắn liền với tính dân tộc, tính quốc tế và tính thời đại là một đặc trưng nổi bật nhất của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Qua hàng trăm bài báo của Hồ Chí Minh với nhiều bút danh khác nhau, qua Tuyên ngôn và Hiệu triệu của các tổ chức Liên hợp thuộc địa, Quốc tế nông dân v.v... mà Hồ Chí Minh là một trong những người sáng lập hoặc lãnh đạo, người ta thấy nổi lên cuộc sống đau khổ, đói, khát của những người phụ nữ Tây Phi, của người phu khuôn vác ở các bến cảng ở Rufisco, Đaca, Braxin..., của người công nhân đầu tiên ở Angiêri, Tuynidi, Marốc, Xyri, Li băng..., của những người nông dân, kẻ hành khất ở Ghinê, Đahômây, Máctiních v.v...
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao giờ cũng gắn liền hạnh phúc của những con người bị áp bức, bị đọa đầy thuộc các dân tộc bị thống trị và lệ thuộc ở thuộc địa với độc lập dân tộc, với tự do, giai cấp được giải phóng. Vì thế, theo Hồ Chí Minh: "Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới"(9). Muốn giải phóng con người trước hết phải giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Quan điểm này nhất quán và thấu suốt trong suốt cả cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh: "Người có lòng nhân đạo là người lạc quan, có một lòng thương cao cả đối với nhân loại, đối với nhân dân, đồng chí bè bạn của mình. Người ta không thể nói gì đến lạc quan hay tự trọng nếu người ta không có chút thương yêu đối với Tổ quốc, đối với nhân dân của mình. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, tình yêu này thật trong sáng và sâu rộng"(10).
Lòng thương yêu con người gắn chặt với tình yêu Tổ quốc và dân tộc đã thúc giục Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Sau ngày trở thành Chủ tịch nước, mặc dầu bận trăm công nghìn việc, người cũng rất quan tâm đến cuộc sống của nhân dân, đặc biệt đối với nhân dân miền Nam đang chịu nhiều đau khổ do đế quốc Mỹ và ngụy quyền gây nên. Người nói, "miền Nam luôn ở trong trái tim tôi". Ngay cả trước lúc "đi xa", Hồ Chí Minh còn nhớ "để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng".
Khi đi thăm bất cứ nước nào, Người đều dành thời gian tiếp xúc với nhân dân lao động. Đối với các cháu thiếu niên, nhi đồng, Hồ Chí Minh không chỉ là "Bác Hồ" của nhân dân, của thiếu nhi Việt Nam, mà còn của cả nhân dân, thiếu nhi nhiều nước trên thế giới. Chính lòng nhân ái, tư tưởng nhân văn của Người là một yếu tố đã chinh phục được nhân dân thế giới.
Ở chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, không có tình yêu thương con người chung chung, mà chỉ có tình thương yêu dành cho người bị áp bức, nghèo khổ ở bất cứ nước nào. Người đã phân biệt bạn thù rõ rệt, phân biệt nhân dân Pháp, Mỹ với những bọn thực dân đế quốc là người Pháp, Mỹ - những kẻ chủ mưu xâm lược, nuôi mộng thôn tính các dân tộc nhỏ yếu và đẩy nhân dân nước họ đến chỗ chết chóc. Vì vậy, Hồ Chí Minh bao giờ cũng độ lượng khoan dung với những người lầm đường lạc lối đi đánh thuê cho bọn thực dân đế quốc. Với ý nghĩa đó, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là tư tưởng của những người nghèo khổ trên thế giới; tình yêu thương con người đã biến thành tình yêu thương đồng loại vẫn trên tinh thần tiêu chí: người bị áp bức, bóc lột. Như vậy, trong phạm vi đất nước Việt Nam cũng như trên phạm vi toàn cầu tình cảm và khát vọng giải phóng của Hồ Chí Minh đều hướng về quần chúng lao động, những bộ phận đông đảo nhất, động lực chủ đạo nhất của mọi sự biến đổi lịch sử. Điều đó chứng tỏ tình thương người ở Hồ Chí Minh không mang tính thần bí, phi giai cấp mà bao giờ cũng có nội hàm xã hội - giai cấp.
Tình yêu thương dân tộc trong Hồ Chí Minh đã quyện chặt với tình yêu thương nhân loại bị bóc lột, đọa đầy, áp bức. Đó là lý do vì sao tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được ca tụng, được noi theo và dần dần trở thành tư tưởng của thời đại. Nó không chỉ có tác dụng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do mà còn phát huy ảnh hưởng trong công cuộc xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ sau khi các dân tộc đã thoát được ách đô hộ của thực dân.
Bốn là, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Tính chất xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện cả trong bản chất xã hội, cả trong mục đích, nhiệm vụ và chức năng mà nó thực hiện trong đời sống xã hội của con người. Ngoài tính chất triệt để, phạm vi bao quát rộng, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh hướng tới giải phóng cả loài người. Điều này cho thấy tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ là một giai đoạn trong dòng chảy liền mạch của tư tưởng nhân văn loài người, nhưng nó đã đạt đến đỉnh cao và có thể thay thế cho các hình thái nhân văn chủ nghĩa đã từng tồn tại trước đó. Vì thế, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là cội nguồn sức mạnh của nhân loại, là nhân tố xích lại gần nhau giữa các quốc gia, phấn đấu hình thành nên một "thế giới đại đồng" cộng sản chủ nghĩa, trong đó con người thuộc mọi dân tộc được tôn trọng, đối xử bình đẳng với nhau như những con người.
Với bản chất và đặc trưng phổ quát, giá trị cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là nền tảng phát triển xã hội, kiến tạo hệ thống quan hệ xã hội mang đậm bản chất người và giá trị làm người chân chính. Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh quốc tế hiện nay.
PGS. TS. Phạm Ngọc Anh
-------
(1) Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb CTQG, H, 1997, tr. 227.
(2) Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Sự thật, H, 1992, tr. 84.
(3) Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, ĐHSP HN và Viện TTKHXH, 1993, tr. 111.
(4) C. Mác - Ph. Ăngghen: Tuyển tập, T.1, Nxb. Sự thật, H, 1980, tr. 569.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.4, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 272.
(6) Trương Niệm Thức: Hồ Chí Minh truyện, Nxb Bát nguyệt, Thượng Hải 6, 1949.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.10, tr. 310.
(8) Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, T.7, Nxb. CTQG, H, 1996, tr. 310.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.1, tr. 416.
(10) Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, H, 1993, tr. 115.