Việc mở rộng và thương mại hóa các sản phẩm ứng
dụng công nghệ vũ trụ, việc đưa các ứng dụng của công nghệ vũ trụ vào
phục vụ cho nhu cầu của các ngành sản xuất, dịch vụ, giáo dục, y tế… đã
lên đến 23 ngành. Công nghệ vũ trụ đã hỗ trợ lớn cho phòng chống, giảm
nhẹ thiên tai và biến đổi khí hậu, quản lý và phát triển nguồn tài
nguyên thiên nhiên.
Đây là thông tin được đưa ra tại Hội thảo các thành tựu nổi
bật về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ giai đoạn 2006-2015 và
định hướng phát triển giai đoạn 2016-2020 của Việt Nam do Bộ Khoa học và
Công nghệ tổ chức ngày 30/9.
Đại diện các cơ quan nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đã báo
cáo các kết quả đạt được và đề xuất các sáng kiến, giải pháp để hoàn
thành mục tiêu đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quyết định số
137/2006/QĐ-TTg ngày 14/6/2006 về Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng
công nghệ vũ trụ đến năm 2020.
Sau gần 10 năm triển khai, việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ vũ trụ
đã được phát triển tại nhiều ngành. Theo sự phát triển của thế giới,
việc ứng dụng cơ sở dữ liệu ảnh vệ tinh cho các ngành đã được mở rộng và
thường xuyên triển khai tại Việt Nam trong các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, môi trường, quốc phòng, an ninh… Công nghệ vũ trụ đã hỗ trợ lớn cho
phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và biến đổi khí hậu, quản lý và phát
triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên biển, phát
triển nông nghiệp, thiết lập cơ sở hạ tầng viễn thông và truyền hình qua
vệ tinh, các ứng dụng định vị vệ tinh, sử dụng khoảng không vũ trụ vì
mục đích thương mại và các mục đích hòa bình khác…
Đến nay, việc mở rộng và thương mại hóa các sản phẩm ứng dụng công
nghệ vũ trụ, việc đưa các ứng dụng của công nghệ vũ trụ vào phục vụ cho
nhu cầu của các ngành sản xuất, dịch vụ, giáo dục, y tế… đã lên đến 23
ngành.
Hiện tại, hầu hết các trường đại học trong toàn quốc chuyên ngành
khoa học tự nhiên, nông nghiệp và phát triển nông thôn, tài nguyên môi
trường… đều có đào tạo bộ môn Viễn thám và sử dụng thường xuyên các ảnh
vệ tinh quang học, vệ tinh rada... Số lượng các nghiên cứu viên, kỹ sư
về nghiên cứu ứng dụng công nghệ vũ trụ đã được đào tạo ở trong nước và
các nước hàng đầu trên thế giới về công nghệ vũ trụ, đến nay ở Việt Nam
có số lượng được đào tạo và đang hoạt động lên tới hàng nghìn người.
Hiện, Việt Nam đang sở hữu các thiết bị vũ trụ gồm vệ tinh thông tin
truyền thông VINASAT 1 và 2, vệ tinh quan sát trái đất VNREDSAT 1, trạm
thu mặt đất ảnh vệ tinh SPOT, trạm thông tin điện tử hàng hải Việt Nam,
hệ thống quan sát tàu cá ngư trường, nguồn lợi thủy sản bằng công nghệ
vệ tinh… Cùng với hệ thống các phòng thí nghiệm cơ bản là nền móng công
nghệ vũ trụ vật liệu, y sinh, công nghệ sinh học, vật liệu nano…
Theo Chủ tịch Hội đồng quản lý Viện Nghiên cứu khoa học biển và hải
đảo Nguyễn Bá Diến để hoàn thành được mục tiêu, nhiệm vụ của Chiến lược
nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020, Chính phủ và các
bộ ngành cần khẩn trương xây dựng thực hiện dự án xây dựng Luật Vũ trụ
của Việt Nam và các văn bản luật chuyên ngành khác có liên quan trong
khung pháp lý cơ bản của quốc gia về lĩnh vực vũ trụ với định hướng
chung là phù hợp với pháp luật quốc tế và các nguyên tắc chung trong sử
dụng khoảng không vũ trụ.
Để ngành công nghệ vũ trụ đạt mục tiêu là ngành công nghệ mũi nhọn
cần phải có cơ chế đầu tư, đãi ngộ đặc thù. Cần khẩn trương xây dựng một
chiến lược đào tạo nguồn nhân lực dài hạn một cách tập trung, hướng
trọng điểm vào giải quyết một số vấn đề của quốc gia, mở các chuyên
ngành công nghệ chuẩn, theo kinh nghiệm và mô hình các quốc gia tiên
tiến.
Trong tầm nhìn đến năm 2035, Việt Nam cần tập trung làm chủ hoàn toàn
công nghệ vệ tinh và phát triển các ứng dụng công nghệ vệ tinh phục vụ
hiệu quả cho kinh tế xã hội. Năm 2030, ngành phát triển chùm vệ tinh
quan sát trái đất, tự thiết kế một số thành phần của vệ tinh, tiếp cận
công nghệ tên lửa đẩy, sau đó năm 2035 và những năm tiếp theo sẽ thử
nghiệm,làm chủ công nghệ, bắt đầu xây dựng các trạm phóng tên lửa ở Việt
Nam./.
Theo Chinhphu.vn