Thứ Tư, 25/9/2024
Sức khỏe
Chủ Nhật, 13/11/2011 11:57'(GMT+7)

Tuyến xã thiếu cơ sở vật chất, thiết bị cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản

Truyền thông cung cấp dịch vụ sức khỏe sinh sản cho người dân vùng biển xã Tam Quang, Núi Thành (Quảng Nam)

Truyền thông cung cấp dịch vụ sức khỏe sinh sản cho người dân vùng biển xã Tam Quang, Núi Thành (Quảng Nam)

Trung bình mỗi trạm y tế ở nước ta có gần chín phòng, trong đó có khoảng ba phòng dành cho chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS). Ðây là một trong số các nội dung của chăm sóc sức khỏe ban đầu, rất cần được chú trọng ở tuyến y tế cơ sở. Tuy vậy, kết quả khảo sát của Vụ Sức khỏe bà mẹ trẻ em (Bộ Y tế) về thực trạng cơ sở vật chất, trang thiết bị, dụng cụ và năng lực cung cấp dịch vụ CSSKSS tại gần 11 nghìn trạm y tế trong cả nước cho thấy vẫn còn 3,1% số trạm hoàn toàn không có phòng nào dành cho CSSKSS và 2,8% số trạm y tế không cho biết là có hay không những phòng này tại cơ sở y tế của địa phương.

Theo hướng dẫn quốc gia về CSSKSS, điều kiện lý tưởng nhất là mỗi trạm y tế có đầy đủ sáu phòng dịch vụ phục vụ  công tác này. Ở những địa phương nguồn lực còn hạn chế, ít nhất cũng phải bảo đảm mỗi trạm y tế có bốn phòng dịch vụ riêng, bao gồm phòng khám thai, tư vấn; phòng đẻ, thủ thuật;  phòng khám phụ khoa và phòng nằm của sản phụ. Phòng khám phụ khoa, phòng đẻ và phòng kỹ thuật kế hoạch hóa gia đình là ba loại phòng cơ bản nhất của dịch vụ CSSKSS, rất cần được tách riêng để bảo đảm mọi quy trình thực hiện tốt. Tuy vậy, tỷ lệ trạm y tế hiện có riêng từng loại phòng này lại không nhiều, tương ứng là 37,8%, 34,8% và 19%. Nếu tính đủ bốn phòng theo hướng dẫn quốc gia, tỷ lệ hiện có lại càng thấp (12,6%). Tỷ lệ trạm y tế có đủ cả sáu phòng mới đạt 7,4%. Và tỷ lệ trạm không có phòng riêng nào trong số sáu phòng kỹ thuật là 8,9%. Những số liệu này cho thấy, trước hết cần phải có sự đầu tư về cơ sở hạ tầng cho tuyến y tế cơ sở.

Tây Bắc, Ðông Bắc và Tây Nguyên là ba vùng có trung bình số phòng kỹ thuật trong tổng số trạm y tế thấp nhất (một đến hai phòng) và có tỷ lệ có đủ sáu phòng hoặc bốn phòng kỹ thuật riêng thấp nhất. Số phòng trung bình cao nhất cũng chỉ ở khoảng con số ba, thuộc về ba vùng sinh thái có điều kiện địa lý thuận lợi và khá mạnh về phát triển kinh tế - xã hội, đó là đồng bằng sông Hồng, Ðông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Ba vùng này cũng là những vùng mà tỷ lệ trạm y tế có đủ sáu phòng hoặc bốn phòng kỹ thuật riêng cao nhất.

Theo hướng dẫn quốc gia, cơ sở y tế tuyến xã không chỉ cần đáp ứng yêu cầu về số lượng phòng kỹ thuật mà còn cần phải bảo đảm các tiêu chuẩn tối thiểu về cơ sở hạ tầng và trang thiết bị. Như đối với phòng đẻ, diện tích phải đạt hơn 16m2, tường, nền phải được ốp lát gạch men, có nơi rửa tay với vòi nước tự chảy, có tủ đựng thuốc và dụng cụ, có bàn chăm sóc sơ sinh. Nhưng kết quả khảo sát cho thấy, trong số những trạm y tế có phòng đẻ riêng (3.822 trạm), tỷ lệ đạt tiêu chuẩn về diện tích không nhiều (34,2%), các tiêu chuẩn còn lại khá tốt (từ 76 đến 93%), nhưng tỷ lệ trạm y tế đạt đủ cả sáu tiêu chuẩn chỉ là 22,4%. Trong số 10.981 trạm y tế được khảo sát, chỉ hơn 50% có góc tư vấn bảo đảm riêng tư, kín đáo.

Theo quy định hiện nay của ngành y tế, trang bị thiết yếu về CSSKSS cho một trạm y tế bao gồm tám loại khác nhau. Nhưng theo kết quả khảo sát, các loại dụng cụ, thiết bị cần thiết đó đều thiếu và không đồng bộ. Loại dụng cụ có đủ số bộ và mỗi bộ có đầy đủ các chi tiết hiện có ở nhiều trạm y tế là bộ đặt tháo dụng cụ tử cung (48,9% số trạm). Hai loại bộ có đầy đủ ở nhiều TYT nhất là bộ đỡ đẻ và bộ đặt, tháo dụng cụ tử cung (trên dưới 50% số trạm có đủ ít nhất một bộ mỗi loại). Bộ hồi sức sơ sinh, do chỉ cần thiếu một vài chi tiết nhỏ như ống hút, đầu nối... thì cũng không vận hành được, nên tỷ lệ TYT có đủ bộ chiếm rất thấp (17,5%)... Theo thống kê, cả nước chỉ có hai trạm y tế đủ tám bộ trang thiết bị, trong đó mỗi bộ đều có đầy đủ các chi tiết, đó là: Trạm Y tế An Ðồng (huyện Ngọc Hiển, Cà Mau) và Trạm Y tế Tân Mỹ (Cầu Ngang, Trà Vinh).

Minh Hoàng/Nhân Dân
Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất