“Xây dựng văn hoá doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh”(1) là một “mắt khâu” quan trọng nhằm khắc phục những khuyết tật của mặt trái nền kinh tế thị trường và tâm lý, lối sống đề cao quá mức giá trị vật chất, đồng tiền - những điều đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức xã hội cũng như quá trình xây dựng, hình thành nhân cách con người Việt Nam.
Xây dựng văn hoá kinh doanh là sự kế thừa, phát triển các quan điểm về xây dựng văn hóa trong kinh tế được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra từ rất sớm.
Trong Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta khẳng định, “văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”(2). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(3). Trong thời kỳ đổi mới, quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa trong kinh tế ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Hội nghị Trung ương 4 khóa VII (năm 1993) xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”(4). Đến Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, văn hóa được xem “là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của phát triển kinh tế”(5). Quan điểm này đánh dấu bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển, hoàn thiện lý luận về văn hóa của Đảng. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng không chỉ nhấn mạnh “tính văn hóa” trong hoạt động kinh tế, mà còn yêu cầu phát triển văn hóa về chiều sâu, thiết thực, hiệu quả trong mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh khi đưa ra nhiệm vụ “xây dựng nếp sống văn hóa”(6) trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI có sự phát triển mạnh mẽ lý luận về văn hóa của Đảng trên nhiều phương diện, trong đó có quan hệ giữa văn hóa với kinh tế: “Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế... Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc”(7). Tiếp nối quan điểm trên, Đại hội XII của Đảng xác định: “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(8). Tại Đại hội XIII, một lần nữa Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ “xây dựng văn hoá doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh”. Theo định hướng này, cần phải tiếp tục đưa văn hóa thấm sâu vào trong mọi hoạt động kinh tế, sản xuất, kinh doanh. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nhân không đi ngược các giá trị chân - thiện - mỹ của văn hóa dân tộc.
Quan điểm của Đại hội XIII định hướng việc khơi dậy, phát huy văn hóa kinh doanh Việt Nam trong tình hình mới.
Trước hết, cần khẳng định, văn hoá kinh doanh Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm. Qua các thời kỳ lịch sử, vượt lên những khắc nghiệt của điều kiện kinh tế, xã hội, văn hoá kinh doanh Việt Nam luôn thể hiện ở sự thông minh, sáng tạo, nhạy bén, thích ứng nhanh của các doanh nghiệp, doanh nhân người Việt. Tuy nhiên, thể chế xã hội cũ và điều kiện kinh tế - xã trước đổi mới chưa tạo ra được môi trường thuận lợi để văn hoá kinh doanh Việt Nam nảy nở, phát triển. Từ khi nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, hoạt động kinh doanh ở Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ; nhiều hình thức kinh doanh, loại hình doanh nghiệp mới ra đời; lợi nhuận thu được từ kinh doanh tăng nhanh đã góp phần khẳng định và nâng cao vai trò, vị thế của doanh nghiệp, doanh nhân trong xã hội. Đây là điều kiện quan trọng để văn hoá kinh doanh Việt Nam từng bước được khơi dậy, phát huy với đầy đủ sắc thái. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam có nhiều cơ hội phát huy hết khả năng, có đóng góp xứng đáng, làm cho đất nước ngày càng giàu, mạnh. Cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam được tiếp cận với các kỹ năng kinh doanh hoàn toàn mới như marketing, xây dựng thương hiệu, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ… Quá trình cạnh tranh trên thị trường quốc tế đã khơi dậy lòng tự hào dân tộc, giúp doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam xích lại gần nhau hơn, biết đoàn kết, chia sẻ để cùng phát triển. Cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đã từng bước nhận thức rõ mục đích kinh doanh không chỉ vì lợi nhuận, mà còn để tôn vinh Việt Nam trên trường quốc tế. Nhiều doanh nghiệp Việt mang tầm quốc tế đã ý thức rõ mục đích xây dựng, phát triển thương hiệu không phải chỉ để tối đa hóa lợi nhuận, mà còn là cách bảo vệ, giữ gìn thể diện quốc gia, văn hóa của dân tộc trong quá trình hội nhập.
Tuy nhiên, hiện nay nước ta vẫn đang thiếu những yếu tố và điều kiện cần thiết để phát triển nền văn hoá kinh doanh tiên tiến, như: thể chế kinh tế thị trường hiện đại, bộ máy hành chính hiệu quả và minh bạch, hệ thống pháp luật đầy đủ và nghiêm minh, hiện đại… Trong xã hội vẫn tồn tại những cách kinh doanh phản văn hoá như: sản xuất hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng; kinh doanh không đăng ký giấy phép, nhãn hiệu, chất lượng hàng hoá; lãng phí tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường; buôn lậu, trốn thuế gây thiệt hại cho nguồn thu ngân sách của nhà nước... Thậm chí, vì lợi nhuận, một số nhà kinh doanh đã bất chấp đạo lý, kỷ cương, phủ nhận những giá trị đạo đức truyền thống, xâm phạm những chuẩn mực kinh doanh truyền thống của dân tộc… Thực tế đó cũng cho thấy việc khơi dậy, phát huy văn hóa kinh doanh Việt Nam chưa được quan tâm tương xứng. Văn hóa kinh doanh “chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước”(9).
Nước ta vẫn đang thiếu những yếu tố và điều kiện cần thiết để phát triển nền văn hoá kinh doanh tiên tiến, như: thể chế kinh tế thị trường hiện đại, bộ máy hành chính hiệu quả và minh bạch, hệ thống pháp luật đầy đủ và nghiêm minh, hiện đại…
|
Trong giai đoạn mới, việc xây dựng văn hóa kinh doanh Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là đòi hỏi cần thiết và cấp bách. Trước yêu cầu đó, quan điểm về xây dựng văn hóa kinh doanh của Đại hội XIII của Đảng, một lần nữa tạo định hướng chiến lược đưa văn hóa kinh doanh Việt Nam thực sự trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng cho sự phát triển bền vững kinh tế Việt Nam. Quán triệt quan điểm Đại hội XIII, cần quan tâm triển khai thực hiện một số nội dung, biện pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc hình thành và phát triển văn hóa kinh doanh chịu sự quy định, tác động của thể chế kinh tế. Do đó, hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là quá trình tạo nên những điều kiện kinh tế - xã hội để văn hóa kinh doanh Việt Nam phát triển với đầy đủ giá trị và bản sắc. Trước hết, Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ “Xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động”(10) như Đại hội XIII xác định. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh, về tài chính công, thuế, tài nguyên môi trường, bảo vệ người tiêu dùng; tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, xoá bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh, xã hội hoá đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt, lành mạnh các thị trường, nhất là thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học - công nghệ. Công khai, minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chính sách hỗ trợ để định hướng cho doanh nhân, doanh nghiệp, giảm rủi ro kinh doanh cho doanh nhân. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, nhất là trong việc thực hiện các dự án, công trình theo hình thức hợp tác công - tư. Thúc đẩy hình thành các doanh nghiệp lớn, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, uỷ quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành; bảo đảm các cơ quan và người thi hành công vụ hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nhân.
Cần xây dựng và thực hiện tốt cơ chế đối thoại, tham vấn ý kiến của doanh nhân trong quá trình ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến kinh doanh.
|
Phải từng bước thay đổi nhận thức của toàn xã hội về vai trò, vị trí của doanh nghiệp, doanh nhân và văn hoá kinh doanh Việt Nam. Khuyến khích các doanh nhân, doanh nghiệp phát huy truyền thống văn hoá dân tộc (như truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết, trọng chữ tín, cần cù và linh hoạt…), đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá kinh doanh trên thế giới (như cá tính mạnh mẽ, tôn trọng luật lệ, sự cam kết, tầm nhìn xa trông rộng, tác phong công nghiệp, trình độ khoa học - công nghệ, phương pháp, năng lực tổ chức, quản trị hiện đại…) để hoàn thiện văn hoá kinh doanh.
Thứ hai, xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp.
Văn hoá doanh nghiệp nằm trong văn hoá kinh doanh của một quốc gia, của một nền kinh tế, là biểu hiện văn hoá kinh doanh ở cấp độ doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp là toàn bộ hệ thống các chuẩn mực về tinh thần và hành vi ứng xử của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp, hướng tới những giá trị tốt đẹp nhất, tạo ra nét độc đáo riêng biệt đồng thời là sức mạnh lâu bền của doanh nghiệp trên thương trường.
Xây dựng văn hóa doanh nghiệp chính là xây dựng lợi thế cạnh tranh, lợi thế thương mại và bản sắc Việt Nam trên sân chơi toàn cầu hóa.
|
Để xây dựng văn hoá doanh nghiệp thành công, các doanh nghiệp Việt Nam phải lấy con người “làm gốc” cho mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh. Coi trọng việc bồi dưỡng tinh thần trách nhiệm, kích thích lòng say mê, tính chủ động, sáng tạo của người lao động. Có cơ chế quản trị khoa học, chế độ thưởng, phạt hợp lý, ghi nhận, tôn vinh những cống hiến của người lao động cho doanh nghiệp, để họ thực sự coi doanh nghiệp là “tổ ấm” của mình.
Bên cạnh đó, văn hoá doanh nghiệp cần phải được coi là tài sản đặc biệt không chỉ của doanh nghiệp, mà còn là “tài sản quốc gia”; cần được quan tâm đầu tư xây dựng một cách đồng bộ, ở các cấp. Ở cấp độ doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp phải được đánh giá và gắn liền với các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất. Ở cấp độ quốc gia, ngành, địa phương cần xác định rõ văn hóa doanh nghiệp là “nguồn lực vật chất” để phát triển của các doanh nghiệp, của đất nước. Từ đó, có chính sách rõ ràng, nhất quán để hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hoá trong doanh nghiệp.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam có văn hoá.
Đội ngũ doanh nhân Việt Nam là chủ thể tiếp thu, gìn giữ, phát triển văn hóa kinh doanh Việt Nam. Xây dựng, phát triển văn hóa kinh doanh Việt Nam phải bắt đầu từ việc xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam có văn hóa. Nghị quyết 09-NQ/TW, ngày 9/12/2011 của Bộ Chính trị về “Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, xác định rõ mục tiêu: “Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần dân tộc, giác ngộ chính trị, văn hóa kinh doanh, có trách nhiệm xã hội cao, có đủ năng lực, trình độ để lãnh đạo, quản lý các doanh nghiệp hoạt động có chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao”(11).
Theo đó, cần quan tâm, tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo và bồi dưỡng doanh nhân. Chính phủ và các bộ, ngành liên quan chủ động xây dựng và triển khai thực hiện chương trình đào tạo doanh nhân, chương trình đào tạo về khởi sự doanh nghiệp; trang bị cho doanh nhân mới những kiến thức cần thiết về kinh doanh, về pháp luật và trách nhiệm xã hội; từng bước tiếp cận chuẩn mực pháp luật quốc tế trong đào tạo quản trị kinh doanh, quản trị doanh nghiệp. Đổi mới nội dung chương trình, phương pháp đào tạo về kinh tế, quản trị kinh doanh ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề theo hướng nâng cao tính thực tiễn của các chương trình đào tạo và khả năng thực hành của học viên. Chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, ý thức trách nhiệm, sự trung thực, tinh thần hợp tác, ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng.
Xây dựng chuẩn mực của doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật; có khát vọng vươn lên làm giàu cho mình, cho đất nước, không ngừng nâng cao năng lực kinh doanh và quản trị doanh nghiệp; có trách nhiệm với người lao động, với cộng đồng, xã hội và có đạo đức, văn hoá kinh doanh, góp phần chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.
Xây dựng hình ảnh doanh nhân có bản sắc Việt Nam; khuyến khích doanh nhân không ngừng hoàn thiện mình để trở thành những người có trách nhiệm, có đóng góp cho xã hội và đất nước. Phát động các phong trào thi đua để nuôi dưỡng khát vọng vươn lên của doanh nhân Việt Nam. Có cơ chế tôn vinh khen thưởng doanh nghiệp, doanh nhân tiêu biểu để tạo tác động lan tỏa trong xã hội.
Đảng ta xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII là: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”(12). Theo đó, xây dựng văn hóa kinh doanh Việt Nam là một trong những nội dung, giải pháp quan trọng để hiện thực hóa nhiệm vụ trọng tâm đó. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức rõ những mặt tích cực và hạn chế của văn hoá kinh doanh Việt Nam; quán triệt sâu sắc định hướng của Đảng, tích cực, chủ động, có lộ trình khoa học để xây dựng một nền văn hóa kinh doanh Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn mới./.
TS. NGUYỄN QUANG TẠO
Viện Khoa học xã hội và Nhân văn Quân sự
________________________
(1) (9) (10) (12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.1, tr.144, 84, 130-131, 202.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2010, t.7, tr.316.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.7, tr.246.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.52, tr.513.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 1998, tr.55.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.223.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2014, tr.53.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2016, tr.128.
(11) Nghị quyết 09-NQ/TW, ngày 9/12/2011 của Bộ Chính trị về “Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.