Từ năm
1827, trước những biến chuyển sâu sắc của thế giới, với con mắt tinh
tường, đại thi hào, nhà tư tưởng lớn của dân tộc Đức Johann Wolfgang
Goethe (1749 - 1832) đã đưa ra nhận xét: “Văn học dân tộc giờ đây càng
trở nên ít ý nghĩa. Thời của văn học thế giới đang đến gần, chúng ta cần
phải nỗ lực để cho nó đến nhanh hơn”. Với nhận xét trên, Goethe tuy
chưa thật thấu đáo khi nhìn nhận ý nghĩa của văn học dân tộc nhưng đã
đúng khi tiên đoán viễn cảnh của văn học thế giới. Chỉ sau đó không lâu,
vào năm 1848, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, thêm lần
nữa, K.Marx và F.Engels nhận xét: “Thay vì tình trạng cô lập, tự cung tự
cấp của các dân tộc trước đây, đang xuất hiện và phát triển những quan
hệ và những sự phụ thuộc phổ biến giữa các quốc gia. Tính chất hẹp hòi
và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa. Từ những nền
văn học dân tộc muôn hình muôn vẻ, đang nảy nở một nền văn học toàn thế
giới”.
Từ đó đến
nay, sau ngót hai thế kỉ, thực tiễn vận động và phát triển của tiến
trình văn học thế giới đã kiểm chứng tính chính xác lời tiên đoán của
Goethe và của các nhà sáng lập chủ nghĩa Marx. Cùng với sự hình thành
một trật tự thế giới mới, một diện mạo văn học mới, một hệ giá trị nghệ
thuật - thẩm mĩ mới đã được thiết lập. Có thể xem lịch sử hình thành và
phát triển của văn học thế giới hiện đại từ nửa sau thế kỉ XIX đến nay
như là kết quả của quá trình giao lưu, tiếp xúc có lúc cưỡng bức, có lúc
tự giác diễn ra giữa các quốc gia, các khu vực, các nền văn hóa và văn
học khác nhau trên thế giới. Chính quá trình đó đã làm xích lại gần
nhau, xóa đi những dị biệt giữa phương Đông và phương Tây, giữa các quốc
gia châu Âu già nua với các quốc gia trẻ trung ở châu Á, châu Phi, châu
Mĩ Latinh để hướng tới tạo lập một hệ giá trị văn học phổ quát mang ý
nghĩa toàn nhân loại, khiến cho mệnh đề nổi tiếng một thời của R.Kipling
“Phương Đông là phương Đông, phương Tây là phương Tây” trở nên thiếu
chỗ dựa trên thực tế. Qua giao lưu, tiếp xúc, văn học và văn hóa các dân
tộc vừa có cơ hội để phát huy ảnh hưởng, tiếp thu, tiếp biến, làm giàu
thêm gia tài tinh thần của dân tộc mình, vừa có cơ hội để gia nhập, đồng
hành với tiến trình chung của văn học và văn hóa thế giới.
Cũng chính
trong tiến trình đó, ý thức tự tôn và mặc cảm tự ti thái quá dần được
điều chỉnh, tạo ra những quan hệ tương thích, hài hòa, khiến cho diện
mạo văn học và văn hóa thế giới ngày càng có xu hướng đạt được sự thống
nhất trong đa dạng. Có thể xem văn học và văn hóa vừa như là tài sản
riêng mang giá trị tinh thần độc đáo của mỗi quốc gia, vừa như là tài
sản chung mang giá trị toàn nhân loại. Từ lâu, trong lịch sử phát triển
thế giới, thông qua văn học và văn hóa, con người ở mỗi quốc gia, trên
mọi châu lục, không phân biệt chủng tộc và màu da, có thể hiểu biết lẫn
nhau, đồng cảm và sẻ chia lẫn nhau cả niềm hạnh phúc và nỗi đau khổ, cả
niềm vui và nỗi buồn, cả những rung động của tâm hồn trước cái đẹp, cái
thiện, trước lẽ được - mất của con người.
Nhìn lại
lịch sử văn học và văn hóa Việt Nam, có thể thấy, chính quá trình tiếp
xúc và giao lưu đã mang đến những thay đổi và biến đổi lớn lao về cấu
trúc cũng như phẩm chất của nền văn học và văn hóa. Nếu từng có lúc,
trong đụng độ lịch sử lâu dài và khốc liệt, do khả năng biết chối từ mà chúng ta giữ được cốt cách văn hóa dân tộc, thì cũng đã có lúc, do khả năng biết không chối từ
mà chúng ta tiếp thu được từ đối tượng những giá trị, tinh hoa ưu việt
để thực hành tiếp biến trên tinh thần thâu thái, khoan dung. Sau hàng
nghìn năm tiếp xúc với phương Bắc, hàng trăm năm tiếp xúc với phương
Tây, văn hóa và văn học Việt Nam đã chứng tỏ khả năng thanh lọc và thích
ứng, khả năng không thay đổi (tĩnh) và khả năng tự biến đổi
(động) để tồn tại và phát triển. Với phẩm chất đó, văn hóa và văn học
Việt Nam vừa bám rễ sâu vào mảnh đất dân tộc, vừa không ngừng vươn rộng
theo những nguồn ánh sáng và dưỡng chất mới để không ngừng nảy nở và
phát triển theo hướng ngày càng hiện đại, chủ động gia nhập với tiến
trình chung của văn học thế giới.
Sau hàng nghìn năm tiếp xúc với phương Bắc, hàng trăm năm tiếp xúc với phương Tây, văn hóa và văn học Việt Nam đã chứng tỏ khả năng thanh lọc và thích ứng, khả năng không thay đổi (tĩnh) và khả năng tự biến đổi (động) để tồn tại và phát triển.
|
Trong suốt
chiều dài thế kỉ XX, văn học và văn hóa Việt Nam không chỉ tiếp thu từ
các nước láng giềng trong khu vực những truyền thống độc đáo, mà còn
tiếp thu từ phương Tây những thành tựu văn chương tiêu biểu để tiến hành
cuộc cách mạng trong thi ca vào những năm 1930. Thông qua các cuộc tiếp
xúc cả trong trạng thái chiến tranh lẫn trong trạng thái hòa bình, văn
học Việt Nam hiện đại đã có cơ hội tiếp nhận những nguồn ảnh hưởng tích
cực từ các nền văn học của các quốc gia thuộc các khu vực: Đông Nam Á,
Đông Bắc Á, Đông Âu, Tây Âu, Bắc Mĩ, Nam Mĩ. Nhiều thành tựu văn học ưu
tú thực sự trở thành chiếc cầu nối các thời đại, các quốc gia và các
châu lục trên hành tinh. Với thành tựu của văn học so sánh, văn học Việt
Nam cũng như văn học các nước trong khu vực và trên thế giới đã không
ngừng được khảo sát, phân tích để tìm ra điểm tương đồng, những mối liên
hệ chung có ý nghĩa phổ biến trong văn học thế giới; đồng thời chỉ ra
những dị biệt, những đặc thù dân tộc làm nên bản sắc độc đáo không lặp
lại của mỗi nền văn học. Mỗi quy luật được phát hiện trong lĩnh vực
nghiên cứu này sẽ là căn cứ khoa học xác đáng để khẳng định thêm quá
trình giao lưu và ảnh hưởng diễn ra như một tất yếu trong văn học thế
giới.
Vào những
năm cuối cùng của thế kỉ XX và những năm đầu tiên của thế kỉ XXI, thế
giới đã chứng kiến những sự kiện trọng đại. Xu hướng chuyển từ đối đầu
sang đối thoại và sự hình thành các tổ chức, các liên minh chính trị,
kinh tế quốc tế lớn đã và đang tạo ra những cơ hội thuận lợi để các quốc
gia mở cửa và hội nhập, tăng cường quan hệ giao lưu và hợp tác quốc tế,
rút ngắn khoảng cách chênh lệch về sự phát triển, gắn kết sức mạnh của
các quốc gia trước nhiệm vụ giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu
như: tài nguyên và môi trường, sắc tộc và tôn giáo, chống khủng bố,
chống đói nghèo và bệnh tật… Trong xu hướng này, các quốc gia không chỉ
tận dụng được các lợi thế quốc tế để phát triển kinh tế mà còn tận dụng
được cơ hội giao lưu để giới thiệu, phát huy sức ảnh hưởng về văn hóa và
văn học của dân tộc mình đến các dân tộc khác và ngược lại, giúp cho
việc tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Ngay từ năm 1957, khi diễn thuyết về
Sứ mệnh của văn nghệ hiện đại tại giảng đường Đại học Uppsala,
Thuỵ Điển, A.Camus đã xác nhận chúng ta đang sống trong một thời đại mà
“nó không chịu cho phép chúng ta không chú ý đến nó”; một thời đại đang
buộc “chúng ta xúc cảm như nhau trước những điều cùng trông thấy và
trong những cảnh ngộ cùng phải chịu đựng”. Thời đại đó không chỉ là thời
đại thăng trầm của lịch sử quân sự, chính trị, kinh tế đang diễn ra
trước mắt toàn nhân loại, mà như một tất yếu, còn là thời đại thăng trầm
của mỗi nền văn hóa và văn học đang không ngừng vận động và biến chuyển
theo những quy luật chung và số phận riêng của nó. Nhưng cũng chính
trong quá trình đó đang tiềm ẩn nguy cơ làm nhòe mờ các đường biên văn
hóa, xáo trộn các giá trị tinh thần thuần khiết của mỗi dân tộc. Nhu cầu
đối thoại giữa các nền văn hóa đang ngày càng có xu hướng gia tăng.
Điều đó có nghĩa là quá trình giao lưu và hội nhập quốc tế vừa tạo ra
thời cơ, vừa tạo ra các thách thức cho mỗi nền văn hóa và văn học của
các dân tộc.
Đây không
chỉ là kết quả của quá trình phát triển, của tiến bộ khoa học và kĩ
thuật, mà còn là kết quả của quá trình nhận thức các giá trị, nhận thức
các kinh nghiệm lịch sử được đúc rút từ thực tiễn văn học và văn hóa thế
giới.
"Ký ức Hội An" - chương trình nghệ thuật thực cảnh khái quát lịch sử, văn hóa của Hội An, tỉnh Quảng Nam. (Ảnh minh họa: vnexpress.net)
Có thể
nói, chính xu thế hội nhập và mở cửa diễn ra trên phạm vi toàn cầu trong
thập kỉ qua đã tạo ra những tiền đề, những cơ hội để các quốc gia với
những nền văn hóa khác nhau ở những khu vực khác nhau của thế giới thực
hiện được các cuộc giao lưu, mang nền văn hóa đặc sắc của dân tộc này
đến với các dân tộc khác. Và ngược lại, cũng chính trong quá trình giao
lưu đó, văn hóa mỗi nước có dịp được trao đổi, chọn lọc, tiếp thu những
giá trị mới, tích cực, tiến bộ từ các nước khác để làm phong phú, đa
dạng thêm cho nền văn hóa nước mình. Quá trình đó sẽ dẫn các quốc gia
đến chỗ gặp gỡ nhau ở những giá trị nhân bản, chân chính với tinh thần
tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, cùng hướng tới mục tiêu dân tộc và hiện
đại.
Nhưng thực
tế cho thấy quá trình hội nhập còn làm nảy sinh những nghịch lí ở chỗ
nó không chỉ tạo ra cho sự phát triển văn hóa mỗi nước những thời cơ
thuận lợi mà còn ẩn chứa ngay trong nó những nguy cơ lớn. Một trong số
những nguy cơ đó chính là sự mai một các giá trị văn hóa truyền thống
trước sự du nhập, tấn công của các yếu tố văn hóa mới lạ từ bên ngoài
vào; sự hòa tan bản sắc riêng độc đáo vốn có của mỗi nền văn hóa thành
một sản phẩm lai tạp, hỗn loạn, không còn có cơ sở để nhận diện, mất đi
những yếu tố làm nên căn cước văn hóa của mỗi dân tộc.
Do nhận
thức rõ tính tất yếu và tính hai mặt của quá trình hội nhập nên Đảng ta
đã kịp thời ban hành Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Mặc dù cho
đến nay, về mặt câu chữ, các nhà văn hóa vẫn còn tiếp tục trao đổi để
đi tìm câu trả lời thuyết phục cho các câu hỏi: Thế nào là “đậm đà bản
sắc”? Cần phải định tính và định lượng nó như thế nào?
Quan hệ giữa hai khái niệm “tiên tiến” và “đậm đà bản sắc” trong mệnh
đề trên ra sao? Có phải chúng là hai phạm trù riêng biệt không liên quan
gì tới nhau hay không?... Nhưng về quan điểm chung, hầu như đã đạt đến
sự thống nhất ở tinh thần coi trọng văn hóa dân tộc, coi trọng những giá
trị truyền thống, coi trọng lịch sử - văn hóa được hình thành, chung
đúc nên trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Những
thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực hoạt động văn hóa trong thời kì Đổi
mới vừa qua cho thấy ý thức chủ động, tích cực của chúng ta trong quá
trình giao lưu và hội nhập. Chúng ta đã tận dụng được khá nhiều cơ hội
thuận lợi để giới thiệu nền văn hóa đặc sắc của dân tộc ta với nhiều
nước khác nhau trên thế giới và ngược lại. Đồng thời, bằng sự trợ giúp
của các phương tiện thông tin, của khoa học và công nghệ, của các phương
tiện vật chất và kĩ thuật, trình độ sáng tạo cũng như trình độ hưởng
thụ văn hóa của chúng ta đã tiến những bước dài trên con đường hội nhập
với các nước trong khu vực và thế giới. Nhìn lại các lĩnh vực văn hóa
như âm nhạc, điện ảnh, thời trang, phát thanh - truyền hình, sách báo,
các ấn phẩm văn hóa và những phương tiện kĩ thuật làm nền tảng cho nó,
có thể dễ dàng nhận thấy chúng ta đã đạt đến một mặt bằng văn hóa khá
khả quan so với thế giới.
Song, cũng chính ở những lĩnh vực này, chúng ta bắt đầu nhận thấy các dấu hiệu thiên về du nhập hơn là hội nhập. Xung quanh các hiện tượng này còn có rất nhiều vấn đề đặt ra cho những người quản lí văn hóa.
Chẳng hạn,
trên lĩnh vực âm nhạc, sự thịnh hành của các loại hình âm nhạc giải trí
đang làm cho cả một thế hệ nhạc sĩ và ca sĩ lên ngôi; kèm theo đó là cả
một thế hệ thính giả chìm đắm trong những giai điệu, những lời ca thiếu
sức truyền cảm, sao nhãng những ca khúc truyền thống mạnh mẽ và hào
hùng, trữ tình và lãng mạn từng tạo nên nhiệt huyết công dân, tạo nên
tình yêu cao cả đối với Tổ quốc, quê hương. Thực ra, việc thuộc tên một
ngôi sao nhạc nhẹ nước ngoài, thuộc những bài hát hay của thế giới đang
thịnh hành thì không những không có hại mà còn có lợi ở chỗ được mở mang
tầm nhìn, tầm hiểu biết, được chia sẻ với bạn bè quốc tế những xúc cảm
mạnh mẽ, những niềm vui, nỗi buồn thánh thiện do âm nhạc đem lại. Có thể
xem đó là kiến thức, là cái "phông" văn hóa cần thiết của mỗi người, nhất
là đối với các bạn trẻ. Nhưng nếu chỉ chạy theo nhạc nước ngoài như một
mode thời thượng, không cần hoặc không biết đến những giá trị âm nhạc
trong sáng của dân tộc, thậm chí coi thường nó, thì lại hoàn toàn không
đúng. Có thể xem đó là sự “què quặt” của thị hiếu âm nhạc.
Ở nghệ
thuật sân khấu còn nguy hại hơn khi phần lớn thế hệ thanh thiếu niên
hiện nay quay lưng lại với nghệ thuật truyền thống, coi đó là cổ hủ, lỗi
thời. Họ dường như không còn khả năng cảm nhận được cái hay của những
làn điệu dân ca, những làn điệu chèo thấm đượm hồn phách dân tộc. Họ có
biết đâu rằng phải đạt đến một bản lĩnh/ trình độ văn hóa nào đó mới có
thể cảm nhận được cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong mỗi làn điệu. Càng nguy
hại hơn khi một số đoàn nghệ thuật, một số nghệ sĩ được một số phương
tiện thông tin đại chúng vô tình hay hữu ý tiếp sức đã nhân danh “đổi
mới” để cải biến nghệ thuật dân tộc thành một thứ nghệ thuật lai căng,
chiều nịnh những thị hiếu thấp kém, làm mai một truyền thống nghệ thuật,
truyền thống văn hóa đẹp đẽ của cha ông. Vẫn biết, chúng ta không chủ
trương áp đặt về mặt sở thích, tôn trọng thiên tư của mỗi cá nhân, nhưng
với điều kiện là không làm phương hại đến các giá trị.
Trong thị
trường sách có phần xô bồ của chúng ta hiện nay cũng có hiện tượng tương
tự. Sách cho trẻ em là một vấn đề đáng lưu tâm. Những truyện tranh kích
thích bạo lực, kích thích những dục vọng cá nhân cực đoan không những
không có giá trị về nghệ thuật mà còn làm hỏng khiếu cảm thụ văn chương,
làm hỏng sự phát triển lành mạnh của ngôn ngữ trẻ em bằng những phụ đề
thiếu tính chuẩn xác về văn chương và ngôn ngữ.
Qua một số
vụ án những năm gần đây, có thể thấy, ở một khía cạnh nào đó, phim hành
động nước ngoài cũng là nguyên nhân góp phần dẫn đến tội phạm nghiêm
trọng ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Nhiều loại hình tội phạm mới như cướp
cửa hiệu, cướp ngân hàng, bắt cóc con tin… vốn có nguồn gốc từ phim ảnh
nước ngoài đã xuất hiện.
Trên
phương diện lối sống, do ảnh hưởng của những triết lí sống thực dụng,
tâm lí hưởng thụ cá nhân, nhiều thanh thiếu niên đã sa ngã vào các tệ
nạn xã hội, hủy hoại nhân cách, làm vẩn đục cuộc sống, vẩn đục môi
trường xã hội - đạo đức của chúng ta. Đặc biệt là vấn đề tín ngưỡng hiện
nay đang có xu hướng bị lạm dụng và tự phát. Bên cạnh việc khôi phục
lại những di tích lịch sử, những phong tục tập quán, những lễ hội truyền
thống tốt đẹp, ở không ít địa phương, nhiều hủ tục đã có nguy cơ phục
hồi. Lợi dụng tự do tín ngưỡng và tâm linh, nhiều kẻ xấu đã hành nghề mê
tín dị đoan, buôn thần bán thánh, làm ảnh hưởng đến đời sống tinh thần
của nhân dân lao động.
Từ khi
mạng internet được đưa vào khai thác và sử dụng phổ biến ở Việt Nam, bên
cạnh những ưu việt hiển nhiên do nó mang lại cũng còn không ít những
điều mà thực tế cho thấy là đã trở thành nỗi lo chung của toàn nhân
loại. Những thông tin không dễ dàng kiểm soát có thể gây tác hại ở những
mức độ khác nhau cho người sử dụng.
Tất cả
những hiện tượng trên đây có thể xem là những biểu hiện tiêu cực, những
mặt trái nảy sinh trong quá trình giao lưu và hội nhập. Tuy chúng ta đã
chủ động nhìn nhận trước, chủ động đối mặt với những khó khăn và thách
thức đặt ra trong quá trình phát triển, nhưng dẫu sao đó vẫn là những
hiện tượng đáng lo ngại, đòi hỏi toàn xã hội, trước hết là ngành văn
hóa, phải có đối sách kịp thời.
Trên
phương diện lí luận, trong những năm qua, Nhà nước đã đầu tư kinh phí để
tiến hành những chương trình, đề tài nghiên cứu có tính chất trọng điểm
quốc gia về văn hóa và phát triển; văn hóa, con người và lối sống; văn
hóa trong kinh doanh… Với những đề tài này, nhiều phương diện quan trọng
của văn hóa, nhiều quan điểm lớn của Đảng và Nhà nước về văn hóa đã
được nghiên cứu, triển khai và làm sáng tỏ. Trong đó, các quan điểm xung
quanh vấn đề tiếp thu có chọn lọc các yếu tố tích cực, tiến bộ của văn
hóa nhân loại, vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống,
vấn đề giáo dục thị hiếu văn hóa cho thanh thiếu niên… đã được quán
triệt bước đầu.
Song, trong hoạt động thực tiễn, nhất là thực tiễn chỉ đạo và quản lí văn hóa, còn tồn tại nhiều vấn đề.
Về nguyên
tắc, cần phân biệt sự khác nhau giữa hội nhập và mở cửa ở lĩnh vực kinh
tế với hội nhập và mở cửa ở lĩnh vực văn hóa. Bởi vì văn hóa là một lĩnh
vực đặc thù. Trong khi phân biệt hai lĩnh vực này, đương nhiên thái độ
cần tránh là bảo thủ, tự tôn hoặc tự ti quá mức hoặc thiếu hiểu biết về
cả hai lĩnh vực. Còn thái độ cần có là thái độ bình tĩnh khoa học để gạt
bỏ những yếu tố tiêu cực và phát huy những yếu tố tích cực trong quá
trình hội nhập và giao lưu cũng như trong quá trình phát triển.
Để đạt
được mục tiêu xây dựng nền văn hóa theo quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta, vấn đề trau dồi bản lĩnh văn hóa cho mỗi cá nhân và cho cả cộng đồng
là vô cùng cần thiết. Nó phải được coi là điều kiện, là tiền đề cho sự
giao lưu và phát triển. Thiếu bản lĩnh văn hóa thì nguy cơ sẽ lấn át thời cơ,
những giá trị đích thực sẽ không được phát hiện và nuôi dưỡng trong khi
những mầm mống tiêu cực lại tự do lây lan, tự do nảy nở mà không được
kiềm chế.
Kinh
nghiệm lịch sử của nước ta cho thấy trong giao lưu văn hóa, dù dưới hình
thức áp đặt hay tự nguyện, khi ý thức dân tộc được đề cao thì việc tiếp
thu hay loại bỏ một yếu tố nào đó bao giờ cũng được thực hiện trên tinh
thần vì lợi ích dân tộc. Vì vậy, đối với những biểu hiện xốc nổi trong
các ứng xử văn hóa hiện nay, nếu chỉ giải quyết bằng biện pháp hành
chính thì hiệu quả có thể nhanh nhưng không cơ bản và lâu dài. Vấn đề là
ở chỗ áp dụng giải pháp giáo dục nào để đạt được hiệu quả mong muốn
trong ý thức văn hóa của mỗi người? Đó chính là cách tạo ra và bảo vệ các giá trị văn hóa bằng chính văn hóa.
Từ năm
1986 đến nay, công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu
quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
và văn học nghệ thuật. Thành tựu đó được lí giải bởi nhiều nguyên nhân,
nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng được biết đến là tinh thần
chủ động hội nhập, tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế. Trong bối cảnh
đó, văn học và văn hóa Việt Nam tự cho thấy là một thực thể năng động
vừa hướng tới giá trị dân tộc bền vững, vừa hướng tới các giá trị quốc
tế và khu vực có tính phổ biến để xác định nguyên lí cho sự phát triển.
Trong quá
trình này, dịch thuật khoa học và dịch thuật văn hóa, văn chương đang
thực sự đóng vai trò là công cụ trí tuệ để hiểu biết về thế giới, rút
ngắn các khoảng cách và nâng cao vị thế của văn học, văn hóa dân tộc.
Với tư cách là thành tố quan trọng trong cấu trúc tổng thể văn hóa, văn
học (bao gồm cả văn học dân gian và văn học viết) luôn luôn có mối quan
hệ hữu cơ, bền chặt với các ngành nghệ thuật khác như sân khấu, điện
ảnh, hội họa… Trong lịch sử phát triển của mình, các bộ môn nghệ thuật
này vừa được sáng tạo theo ý thức văn hóa với các đặc trưng,
đặc thù riêng, vừa được thừa hưởng những giá trị văn học độc đáo, coi đó
như một nguồn cảm hứng, một miền đất hứa của sáng tạo nghệ thuật. Hiện
đang có không ít những giá trị văn học của dân tộc này được các dân tộc
khác biết đến và lĩnh hội thông qua các tác phẩm sân khấu và điện ảnh
chuyển thể và dàn dựng từ tác phẩm văn học. Trong các trường hợp đó,
hiệu ứng giao lưu văn học được khuếch đại lên nhiều lần.
Vào những
thập niên cuối cùng của thế kỉ XX, quá trình hội nhập quốc tế diễn ra
như một xu thế không thể đảo ngược, một mặt chi phối sâu sắc đến tiến
trình vận động và phát triển của văn hóa, văn học nghệ thuật ở các quốc
gia, các khu vực của thế giới, mặt khác, dẫn đến nguy cơ rạn vỡ, tan
biến của những nền văn hóa thiếu bản lĩnh… thì vấn đề giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc được đặt ra như một yêu cầu sống còn của nền văn hóa.
Dường như sau nhiều thế kỉ nỗ lực để hội nhập, đến lúc này các quốc gia
mới thức tỉnh để nhận biết nguy cơ bị hòa tan về văn hóa.
(Ảnh minh họa)
Cho đến
nay, các câu hỏi “Có hay không có văn hóa toàn cầu?”, “Có hay không có
toàn cầu hóa văn hóa?”... mặc dù đang còn nhiều cách lí giải khác nhau
xuất phát từ thực tế ở mỗi quốc gia và mỗi nền văn hóa thì vẫn luôn luôn
được các nhà nghiên cứu ở các quốc gia quan tâm lí giải. Tuy trong văn
hóa nhân loại có những hằng số, những giá trị chung, nhưng sẽ trở nên
đơn điệu và nghèo nàn khi mất đi dấu ấn của mỗi nền văn hóa riêng biệt.
Trong các báo cáo thường niên của các tổ chức quốc tế như UNDP, UNESCO…
luôn có những chỉ số và cảnh báo các nguy cơ về văn hóa. Nhất là từ khi
cuốn sách nổi tiếng Sự đụng độ giữa các nền văn minh của tác
giả Mĩ S.Huntington ra đời gây nên những phản ứng khác nhau từ nhiều
phía thì giới nghiên cứu văn hóa và chính trị hiện đại càng quan tâm
nhiều hơn đến những diễn biến tư tưởng chính trị có nguồn gốc từ văn hóa
đang diễn ra tại nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Qua trao đổi,
tranh luận có thể thấy thái độ dân tộc cực đoan và thái độ cực đoan văn
hóa đã bị nhận một sự phê phán thỏa đáng, cũng giống như thái độ sô-vanh
văn hóa từng xuất hiện ở một số nơi trên thế giới vào các hoàn cảnh
nhất định.
Trong một
bối cảnh quốc tế như vậy, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở Việt
Nam được đặc biệt quan tâm. Vốn là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc
có một nền văn hóa riêng độc đáo, làm thế nào để vừa giữ gìn, phát huy
được sắc thái văn hóa riêng của từng dân tộc, vừa đạt được sự thống nhất
hài hòa trong tổng thể văn hóa chung của quốc gia là vấn đề hết sức khó
khăn và phức tạp, đòi hỏi không chỉ trình độ nhận thức lí luận, trình
độ am hiểu văn hóa mà còn đòi hỏi khả năng quản lí và hoạt động thực
tiễn cao.
Quan sát
các lĩnh vực khác nhau của đời sống văn hóa và văn học nghệ thuật những
năm qua, có thể dễ dàng nhận thấy những dấu hiệu lúng túng, va vấp xung
quanh việc xử lí mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại trong thực tiễn và tư duy sáng tạo, biểu hiện ở ba dạng thức sau: 1) Đối lập giữa dân tộc và hiện đại,
xem đó là hai khái niệm ngược nghĩa, hai hướng tìm tòi, khám phá không
thuận chiều. Nhìn vào văn học dân tộc thời kì 1932 - 1945 có thể thấy
quá trình hiện đại hóa không phải là quá trình phân giải, tan rã mà là
quá trình trở lại của các giá trị truyền thống của văn học dân tộc. Như
vậy, hiện đại và dân tộc không phải là các phạm trù
ngược nghĩa, bài xích, loại trừ nhau, mà là các phạm trù có khả năng
dung nạp nhau để cùng tồn tại và phát triển. 2) Đồng nhất hiện đại với quốc tế. Dạng thức này giống dạng thức thứ nhất ở chỗ xem hiện đại là hướng ngược chiều với dân tộc nên chỉ chú trọng hướng ra quốc tế, tìm ở bên ngoài những cái có thể vay mượn, tiếp thu hoặc bắt chước. 3) Đồng nhất dân tộc với truyền thống. Trong một nền văn hóa có lịch sử lâu đời và đa dạng như nước ta, có những giá trị truyền thống đồng thời là giá trị dân tộc, nhưng cũng có những giá trị truyền thống không đồng thời là giá trị dân tộc.
Không thể phủ nhận được rằng trong suốt chiều dài lịch sử, ảnh hưởng tư
tưởng học thuật và văn hóa từ trung tâm lớn là Trung Hoa và Ấn Độ hết
sức sâu sắc, hình thành nên dấu ấn truyền thống trong đời sống văn hóa Việt Nam mà nhìn từ góc độ dân tộc không dễ nhận ra.
Từ ba dạng thức đã nêu, đối với các cặp khái niệm mà lâu nay ta vẫn dùng là dân tộc và hiện đại, truyền thống và hiện đại, tôi đề nghị nên có sự cân nhắc, điều chỉnh lại thành dân tộc và quốc tế, truyền thống và hiện đại. Như vậy vừa chính xác hơn, vừa dễ xử lí hài hòa các mối quan hệ giữa các cặp khái niệm trong quá trình tư duy sáng tạo./.
PGS. TS. PHAN TRỌNG THƯỞNG
(Nguồn: Tạp chí VNQĐ)