Trong đó, chất thải rắn sinh hoạt khu vực đô
thị phát sinh khoảng 38 nghìn tấn/ngày, khu vực nông thôn phát sinh
khoảng 32 nghìn tấn/ngày. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt khu đô thị đạt hơn 85%,
khu vực nông thôn khoảng từ 45% đến 50%...
Về công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt, chủ yếu là chôn lấp hợp vệ sinh, ủ sinh học
làm phân hữu cơ, hoặc đốt. Tuy nhiên, tỷ lệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt bằng công nghệ
chôn lấp chiếm đến 75% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh hằng năm.
Ðáng lo
ngại, hiện nay các bãi chôn lấp đã quá tải và một số bãi chôn lấp gây ô
nhiễm, không hợp vệ sinh, tạm bợ, lộ thiên, không có hệ thống thu gom và
xử lý nước, quá tải, không được che phủ bề mặt, không phun hóa chất khử
mùi và diệt côn trùng…
Một số vùng nông thôn, thị xã, thị trấn đang áp dụng các mô hình lò
đốt chất thải rắn sinh hoạt không khí tự nhiên tuần hoàn thay cho phương pháp chôn lấp
nhưng chưa có hệ thống xử lý khói hoặc có nhưng chưa đáp ứng quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia về lò đốt chất thải rắn sinh hoạt.
Mặc dù thời gian qua, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đã ban
hành nhiều cơ chế, chính sách quy định cụ thể về quản lý, khuyến khích,
ưu đãi, hỗ trợ dự án đầu tư xử lý chất thải rắn sinh hoạt nhưng thực tế cho thấy, việc áp
dụng các quy định tại một số địa phương còn nhiều bất cập dẫn đến việc
phản đối của người dân tại địa điểm quy hoạch xử lý chất thải rắn sinh hoạt.
Phần lớn bãi
chôn lấp ở các đô thị nhỏ thường không hợp vệ sinh, một số bãi rác tại
nông thôn phát sinh tự phát không theo quy hoạch. Ngoài ra, hầu hết công
nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt nhập khẩu không phù hợp thực tế; trong khi thiết bị,
công nghệ trong nước chưa đồng bộ, mức độ tự động hóa chưa cao…
Trước thực trạng nêu trên, năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến
năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050. Chiến lược đặt mục tiêu cụ thể như:
Phấn đấu đến năm 2025, có 90% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tại các đô thị
được thu gom và xử lý đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường; đưa tỷ lệ
chất thải rắn sinh hoạt xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp chỉ còn tỷ lệ dưới 30%
so với lượng chất thải được thu gom; tận dụng tối đa lượng chất thải hữu
cơ để tái sử dụng, làm phân compost hoặc tự xử lý tại các hộ gia đình
thành phân compost để sử dụng tại chỗ…
Tuy nhiên, để thực hiện được các mục tiêu đề ra, ngành tài nguyên và
môi trường cần phối hợp chặt chẽ với ngành khoa học và công nghệ tiếp
tục nghiên cứu các công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt phù hợp điều kiện Việt Nam nhằm
tái sử dụng, tái chế, xử lý thu hồi năng lượng, hạn chế đến mức thấp
nhất tình trạng chôn lấp.
Các cơ quan quản lý nhà nước sớm ban hành danh
mục công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt và tiêu chí để hướng dẫn các địa phương lựa
chọn cho phù hợp.
Các ngành và các địa phương cần sớm đóng cửa các bãi
chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt gây ô nhiễm môi trường theo quy định…
Bên cạnh đó, điện rác đang là xu hướng công nghệ đáng chú ý hiện nay
trên thế giới, do vậy Việt Nam cần tập trung nguồn lực đầu tư, hoặc thu
hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài để phát triển công nghệ điện rác.
Các
tỉnh, thành phố cần khuyến khích, ưu tiên các nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt tập
trung, công nghệ hiện đại và công suất lớn, nhất là nhà máy ứng dụng
công nghệ điện rác tiên tiến.
Khuyến khích người dân, doanh nghiệp áp
dụng công nghệ ủ sinh học làm phân hữu cơ, tạo khí bi-ô-ga phát điện,
chất đốt từ nguồn chất thải rắn sinh hoạt tại địa phương và gia đình mình, nhằm hạn chế
lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh phải thu gom tập trung…/.