Thứ Bảy, 23/11/2024
Tuyên truyền
Thứ Bảy, 16/5/2009 11:36'(GMT+7)

Bác Hồ và " Quê hương nghĩa trọng tình cao"

Bác Hồ về thăm quê ở Kim Liên, Nghệ An năm 1961. Ảnh: Tư liệu

Bác Hồ về thăm quê ở Kim Liên, Nghệ An năm 1961. Ảnh: Tư liệu

Quê hương, gia thế của Hồ Chí Minh đã có vai trò như thế nào trong việc hình thành nhân cách, trí tuệ, bản lĩnh của Người? Tại sao ở trong con người Hồ Chí Minh lại kết hợp hài hoà, phong phú, bền chặt nhiều phẩm chất cao quý đến như vậy: một người yêu nước, thương dân hết mực; một chiến sỹ đấu tranh không mệt mỏi để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; một lãnh tụ cộng sản xuất sắc, nhân hậu, được nhiều người, nhiều dân tộc ngưỡng mộ, yêu kính; một người hiền của mọi thời đại.

Quê Bác nằm ở hạ lưu Sông Lam của xứ Nghệ, nơi hội tụ của các trung tâm văn hoá vùng Bắc Trung Bộ; nơi phát tích nhiều nền văn hoá cổ, một vùng văn hoá dân tộc học đặc sắc. Cụ nghè Nguyễn Xuân Ôn, một trong những lãnh tụ của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX từng ca ngợi quê hương: “Non nước châu Hoan đẹp tuyệt vời, Sinh ra trung nghĩa biết bao người”. Bác sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, ở một vùng quê giàu truyền thống văn hiến và cách mạng. Vùng quê ấy, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, thường xuyên đương đầu với muôn vàn giặc giã, thiên tai, trong khổ đau vẫn gan góc, trong mất mát vẫn kiên cường, là đất phên dậu, đất Cối Kê. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông - kẻ thù hung bạo từng tung hoành vó ngựa suốt cả vùng đất rộng dài từ Á sang Âu, ở vào tình thế nước sôi lửa bỏng, ngàn cân sợi tóc, vua Trần Nhân Tông vẫn khẳng định: “Cối Kê cựu sự quân tu ký, Hoan Diễn do tồn thập vạn binh” (chuyện cũ Cối Kê ngươi nên nhớ, Hoan Diễn kia còn chục vạn binh). Nhìn trong lịch sử dân tộc, những tên tuổi lớn như Mai Hắc Đế, Hồ Quý Ly, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ - Quang Trung, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Phân Đình Phùng, Phan Bội Châu, Nguyễn Trường Tộ...hoặc sinh trưởng hoặc thành danh ở nơi này. Nhiều nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta như Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu, Lê Hồng Sơn, Lý Tự Trọng, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Sĩ Sách,…cũng là những người con ưu tú của đất Hồng Lam.

Truyền thống yêu nước của gia đình, quê hương đã ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đến tuổi ấu thơ của Bác, đến việc hình thành nhân cách, tư tưởng của Người. Sau này, trên con đường bôn ba tìm đường cứu nước, được hoà mình trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động châu Âu, châu Mỹ, châu Á, châu Phi; được tiếp xúc với chủ nghĩ Mác - Lê nin và ánh sáng cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển truyền thống văn hoá, yêu nước và cách mạng của dân tộc, của quê hương lên tầm cao mới: chủ nghĩa yêu nước mang nội dung nhân bản sâu sắc; giải phóng dân tộc là đi liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; đề cao con người là nhân tố quyết định của lịch sử; cách mạng dân tộc, dân chủ phải phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là những đóng góp của Người đối với giá trị văn hoá Việt Nam và của cả nhân loại.

Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá kiệt xuất của nhân loại”. Từ những năm hai mươi của thế kỷ trước, nhà thơ Xô viết Ôxíp Manđenstan đã viết về Nguyễn Ái Quốc - tên Người lúc đó, trên tạp chí Ogoniok số 39, như sau: “Từ Nguyễn Ái Quốc toả ra một nền văn hoá, không phải là văn hoá châu Âu mà có lẽ là nền văn hoá của tương lai”… “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc giản dị và lịch sự. Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi thấy được ngày mai, thấy được viễn cảnh trời yên bể lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương”.

Người yêu quý, giữ gìn, nhập tâm nhiều làn điệu hát ví, hát dặm, hát phường vải của quê nhà. Người ưa lẩy Kiều và đã vận dụng nghệ thuật dân gian này đến độ sáng tạo, tinh tế. Người sử dụng rộng rãi, linh hoạt các thể loại văn học truyền thống, các hình thức sinh hoạt văn hoá dân dã như tập Kiều, lẩy Kiều, tập cổ, thơ lục bát, thơ tự vịnh, thơ cổ điển, thơ mừng tuổi, thơ chúc tết. Người không nhận mình là một nhà thơ, nhà văn “Ngâm thơ ta vốn không ham”... Người làm thơ, viết văn, viết báo, chụp ảnh, ký hoạ là để làm phong phú cuộc sống thường nhật gian khổ, khó khăn của mình, cao hơn, để phục vụ cách mạng. Trong thơ văn, Người hay dùng tục ngữ, ca dao, dân ca, lối nói ví von, so sánh sinh động, dễ hiểu của nhân dân lao động. Người yêu mến và say sưa nghiên cứu các tác phẩm văn chương cổ điển của Việt Nam, Trung Quốc, Pháp và thế giới. Người nhắc nhở mình và mọi người “Nay ở trong thơ nên có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong”. Văn chương của Người vừa giản dị, chân chất như tính mộc mạc, đằm thắm của người Nghệ, lại có cái sâu sắc, thâm thuý, trí tuệ uyên bác của các nhà hiền triết; cổ điển và hiện đại, xứ sở và dân tộc, phương Đông và phương Tây hoà quyện một cách nhuần nhuyễn, tài tình.

Trên con đường hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt chân lên hầu khắp các châu lục, nhiều quốc gia, nhiều nền văn hoá, thông thuộc nhiều thứ tiếng nước ngoài. Vậy mà, một đêm ở Thái Lan xa xôi, Người thốt lên “xa nhà chốc mấy mươi niên, đêm qua nghe tiếng mẹ hiền ru con”. Người vẫn giữ cho mình giọng Nghệ nằng nặng, trầm ấm, vang vọng của quê nhà. Sau hàng chục năm xa quê, ngày trở lại, Người xúc động nói: “Quê hương nghĩa trọng tình cao, Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”. Người không quên lối đi nhỏ vào nhà ngày xưa, cây bưởi trước nhà, cây mít, hàng cau phía sau, chiếc võng tuổi thơ, chiếc rương gỗ nhỏ - của hồi môn ít ỏi của mẹ, khung cửi của mẹ, chiếc phản gỗ và mấy pho sách của cha, những câu chuyện kể của bà… Người nhớ và ghi sâu công đức người thầy khai tâm của mình, những kỷ niệm với người bạn câu cá, nhà ông thợ rèn, những buổi trưa thả diều, chăn trâu, đánh trận giả…Người nhớ và nhắc giúp ca sỹ quê nhà hai câu cuối của một bài hát dân ca, về cách phát âm, cách luyến láy một số từ giọng Nghệ khi hát xướng. Trong bữa ăn thường nhật, Người ưa món tương, nhút, quả cà giòn tan, mằn mặn của quê xa.

Quê hương Người, như đã nói ở trên, có rất nhiều truyền thống quý báu, mang đặc trưng văn hoá xứ Nghệ khó lẫn. Tuy nhiên, con người và vùng đất ấy cũng có những hạn chế, nhược điểm khó tránh khỏi. Nhà văn, nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai - cũng là một ông đồ Nghệ thâm thuý văn hoá Đông, Tây đã nói rất đúng, rất sâu sắc điểm yếu này. Đôi lúc, trong không khí đầm ấm, chân tình với bà con, đồng chí quê hương, Hồ Chí Minh thường gọi đùa, nói đùa với “dân choa”, “nhà choa”. Người nhẹ nhàng nhưng chân thành chỉ ra những điểm yếu, mặt yếu cần khắc phục. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, nhân dân tỉnh nhà rằng: phải biết phát huy lòng yêu nước, tinh thần bất khuất trước địch hoạ, thiên tai, cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình, giản dị, mộc mạc, ngay thẳng trong điều ăn lẽ ở. Đồng thời, cũng phải biết khắc phục tâm lý nông dân sản xuất nhỏ, manh mún, hẹp hòi; tiết kiệm quá thành hà tiện; ít giao tiếp nên dễ kém năng động; chỉ ham cái lợi nhỏ trước mắt mà không lo cái lợi to lớn, lâu dài; kiên định không đúng cách dễ trở thành bảo thủ, quan liêu, duy ý chí.

Hồ Chí Minh là tấm gương thanh cao về nếp sống giản dị, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, dĩ công vi thượng. Nếp sống đó không chỉ có ở Người khi hoạt động cách mạng bí mật, gian khổ, hiểm nguy mà giữ nguyên vẹn khi Người đã là Chủ tịch nước yêu kính của dân tộc. Quên mình, chí công vì một lẽ: Người luôn đặt lợi ích của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân lên trên hết, chăm lo từng điều nhỏ cho đồng bào, đồng chí sống gần Người. Và đẹp đẽ, kỳ diệu thay, những đồng chí, học trò, người dân sống gần Người, đã rất tự nhiên, tiếp nhận, thẩm thấu, bồi lắng, dày dặn chất văn hoá, nhân văn, nhân bản Hồ Chí Minh.


TS. Nguyễn Thế Kỷ, Vụ Trưởng Vụ Báo chí - Xuất bản, Ban Tuyên giáo Trung ương
Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất