Chủ Nhật, 24/11/2024
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống
Thứ Bảy, 2/12/2017 9:3'(GMT+7)

Bàn về mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội

Có thể hiểu nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó các quan hệ thị trường quyết định sự phân bổ nguồn lực thông qua hệ thống giá cả. Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân được tự do ra quyết định kinh tế. Các doanh nghiệp được tự do lựa chọn ngành, nghề kinh doanh, lựa chọn quy mô, công nghệ sản xuất và thuê các yếu tố sản xuất; tự do lựa chọn địa điểm và phương thức phân phối sản phẩm tạo ra... Hầu hết các quyết định đó không xuất phát từ động cơ đóng góp cho phúc lợi chung của toàn xã hội mà xuất phát từ lợi ích riêng.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, thị trường đã không hoàn hảo như mong đợi, trước hết là trong việc phân bổ nguồn lực hiệu quả. Ngoài ra, trong một số trường hợp, bản thân thị trường không thể mang lại những kết quả mong muốn cho toàn xã hội. Khi điều này xảy ra, các nhà kinh tế nói rằng thị trường đã thất bại. 

Chính bởi những lý do này mà nhà nước cần can thiệp vào các hoạt động kinh tế. Các nhà kinh tế đã khẳng định, mặc dù không thể thay thế thị trường, nhưng nhà nước có thể hoàn thiện các hoạt động thị trường. 

Trong lịch sử kinh tế học phương Tây từng diễn ra nhiều lần tranh luận về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Nội dung các cuộc tranh luận chủ yếu xoay quanh vấn đề tương quan giữa nhà nước và thị trường trong nền kinh tế: Nhà nước nhiều hay thị trường nhiều.

Có thể khái quát 3 quan điểm chính sau: 

“Nhà nước tối thiểu”

Quan hệ giữa nhà nước với thị trường tự do theo lý thuyết đề cao vai trò “bàn tay vô hình” của thị trường. Đại diện cho trường phái này là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh A-đam Xmít (1723 - 1790). Nói rất vắn tắt và giản đơn, theo ông, thị trường cần phải được vận hành một cách tự do, không bị méo mó bởi các quyết định hành chính.

Quan điểm này cho rằng: dân chúng, các doanh nghiệp hiểu biết về tình trạng của nền kinh tế không kém chính phủ, vì thế họ có đủ dự liệu để tự điều chỉnh hành động của mình sao cho đạt hiệu quả nhất, do vậy không cần đến sự điều tiết của nhà nước. Nhà nước chỉ cần thực hiện ba chức năng quan trọng: một là, bảo vệ xã hội, khiến nó không bị xã hội khác xâm phạm; hai là, bảo vệ thành viên xã hội; ba là, xây dựng và duy trì những công trình công cộng và cơ cấu công cộng nào đó.

Tuy nhiên, rất ít quốc gia còn áp dụng mô hình đề cao tuyệt đối vai trò của thị trường theo lý thuyết “bàn tay vô hình”. 

Từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, thực tiễn ở phần lớn các nước đã chứng tỏ rằng sự thất bại của can thiệp nhà nước về kinh tế ngày càng mang tính phổ biến và trở thành một vấn đề nghiêm trọng. Trong giai đoạn này, vai trò tự điều tiết của thị trường lại được đề cao và chủ nghĩa tự do mới lan rộng.

Các nhà kinh tế học theo chủ nghĩa tự do mới chỉ ra năm nguyên nhân chính gây ra thất bại của nhà nước(2) và cho rằng, thị trường có khả năng tự điều tiết đầy đủ, phản đối sự can thiệp của nhà nước. Quan điểm này được chấp nhận rộng rãi ở Hoa Kỳ (thời kỳ Tổng thống R. Ri-gân), Vương quốc Anh (Thủ tướng M. Thát-chơ) và Tây Đức (Thủ tướng H. Kôn). Ở cả ba nước này, chính sách đã được điều chỉnh theo hướng ủng hộ mô hình nhà nước tối thiểu.

“Nhà nước nhiều” 

Quan hệ giữa nhà nước với thị trường theo lý thuyết đề cao vai trò “bàn tay hữu hình” của nhà nước. Học thuyết kinh tế của J.M. Kên là nền tảng tư tưởng về sự can thiệp của nhà nước. Ông cho rằng, nhà nước phải đóng vai trò lớn trong nền kinh tế thị trường. Là người chịu trách nhiệm chính trong việc ổn định các hoạt động kinh tế, nhà nước có nhiệm vụ thực hiện những chính sách và biện pháp tài chính - tiền tệ để chống lại những cuộc suy thoái chu kỳ, bảo đảm đủ việc làm và duy trì nền kinh tế trong trạng thái không có lạm phát.

Nhiều nhà lý luận kinh tế đã đánh giá cao tư tưởng của J.M. Kên, coi đó là “liều thuốc” hữu hiệu giúp cho nền kinh tế tư bản từ kém phát triển trở thành phát triển. Lịch sử cũng đã chứng minh các nền kinh tế thị trường thành công đều cần có sự can thiệp và hỗ trợ của nhà nước.

Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nhiều người cho rằng, chủ nghĩa tự do mới là nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng này. Và, dường như cuộc khủng hoảng lần này chứng tỏ tính đúng đắn của lý thuyết Kên: nền kinh tế Mỹ bị sụp đổ do thả lỏng quá mức vai trò điều tiết của thị trường tự do, đồng thời việc khắc phục khủng hoảng bằng các gói kích cầu của nhà nước theo đúng đề xuất của J.M. Kên. Rất nhiều chính phủ ở các nước phương Tây cũng đã áp dụng chính sách ứng phó dựa theo quan điểm của chủ nghĩa Kên mới. 

“Vỗ bằng hai bàn tay” 

Trên thực tế, quan điểm nhìn nhận nhà nước như một hệ thống có vai trò đặc biệt trong việc “sửa chữa” những thất bại của thị trường đã trị vì cả trong lý thuyết kinh tế lẫn trong thực tế điều hành chính sách ở hầu hết các nền kinh tế trên thế giới từ khi học thuyết Kên ra đời (năm 1936) cho đến đầu những năm 70 của thế kỷ trước. Nhưng nó đã dần mất đi tính hấp dẫn do thực tiễn ở phần lớn các nước đã chứng tỏ rằng, sự thất bại của can thiệp nhà nước về kinh tế ngày càng mang tính phổ biến và trở thành một vấn đề nghiêm trọng.

Quan hệ giữa nhà nước với thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện đại giống như “bàn tay vô hình”, “bàn tay hữu hình” cũng có những khuyết tật riêng của nó. Vấn đề ở đây là làm thế nào để kết hợp một cách hài hòa cơ chế thị trường với vai trò điều tiết kinh tế của chính phủ. P. A. Xam-en-xơn là một trong những người khởi xướng lý thuyết cho rằng, phát triển kinh tế phải dựa vào cả “hai bàn tay”, đó là cơ chế thị trường và nhà nước. Để đối phó với những khuyết tật của cơ chế “bàn tay vô hình”, các nền kinh tế hiện đại là sự hỗn hợp giữa thị trường và “bàn tay hữu hình” của nhà nước thông qua các chính sách và luật lệ của chính phủ. Ngày nay, lý thuyết về “nền kinh tế hỗn hợp” đang thu hút được sự quan tâm của các nhà kinh tế ở mọi trường phái khác nhau, và được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Tuy nhiên, trên thực tế, điều khó khăn nhất đối với các chính phủ trong điều hành kinh tế là xác định được ranh giới giữa nhà nước và thị trường.

2- Những ý kiến gần đây về nhà nước đã chỉ ra rằng, sự phân đôi kiểu nhà nước hay thị trường, công cộng hay tư nhân đều thất bại ở hai khía cạnh. Thứ nhất, giữa nhà nước và thị trường, công cộng và tư nhân không có một ranh giới rõ ràng. Ở hầu hết các nước, giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân “thuần túy” là các loại hình liên doanh chồng chéo, ví dụ như các công ty cổ phần; các doanh nghiệp nhà nước có ban quản lý được thuê từ khu vực tư nhân; các hãng tư nhân hoạt động với các đặc quyền của nhà nước; các hợp tác xã;... Thứ hai, các thị trường đòi hỏi một khuôn khổ pháp lý và điều tiết mà chỉ chính phủ mới có thể cung cấp. Các quyền và trách nhiệm pháp lý cũng quan trọng như hệ thống trao đổi hàng hoá của thị trường. Như vậy, vấn đề đặt ra không chỉ đơn thuần là sự lựa chọn giữa nhà nước hay thị trường. Hay nói cách khác, quan hệ giữa nhà nước và thị trường không là mối quan hệ đối lập theo kiểu bên này giảm thì bên kia tăng.

Ở một góc độ khác, mối quan hệ này là mối quan hệ cộng sinh, có tính chất tương hỗ lẫn nhau. Vấn đề đặt ra là có nên coi “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” là các lực lượng chế ước và cân đối lẫn nhau trong mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, hay cần tìm và phát huy mối quan hệ này thông qua lực lượng xã hội. Xuất hiện một xu hướng mới, là tìm kiếm một lực lượng hoàn toàn mới vượt ra ngoài chính phủ và thị trường để cân bằng mối quan hệ này. Đó là “bàn tay thứ ba”

Với “bàn tay thứ ba”, xã hội thông qua hoạt động có tổ chức khơi dậy ý thức công cộng của dân chúng, qua đó tác động đến quyết sách chính phủ, đồng thời có thể hình thành sự giám sát và chế ước bên ngoài của xã hội đối với quyền lực nhà nước và hành vi thị trường, từ đó tránh được tình trạng quyền lực đi đôi với lạm quyền, lợi ích nhóm, còn thị trường đi đôi với tham lam và giả dối. Ngoài ra, các nhóm xã hội này còn có thể thay thế nhà nước và thị trường cung cấp những sản phẩm công mà nhà nước và thị trường không đủ sức hoặc không muốn cung cấp, bởi: một mặt, các sản phẩm công mà nhà nước cung cấp là những sản phẩm công phổ biến, không thể tính đến sự khác biệt của từng khu vực, đối tượng, do đó về mặt cung cấp một số sản phẩm công đặc thù thì chính phủ không vươn tới được; mặt khác, các doanh nghiệp tư nhân với mục đích lợi nhuận nên sẽ không muốn tham gia cung cấp một số sản phẩm công.

Để thực hiện mục tiêu này, theo xu hướng nói trên, vấn đề đặt ra đối với các quốc gia trong giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường là cần phải xây dựng một xã hội năng động, tồn tại giữa nhà nước và thị trường, nó đòi hỏi thị trường phục tùng xã hội và chịu sự giám sát, quản lý của nhà nước.

Ở nhiều nước tư bản phương Tây, các tổ chức xã hội đã có vai trò không nhỏ trong bảo đảm sự cân bằng của mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Có thể khái quát ở một số vai trò cơ bản sau:

- Tham gia quá trình xây dựng và thực hiện chính sách ở khu vực công.

- Tham gia công tác quản trị khu vực công, đặc biệt các vấn đề về tăng trưởng, cạnh tranh, việc làm.

- Kết nối các mạng lưới xã hội, xây dựng, tạo niềm tin với nhau, tạo nguồn vốn xã hội to lớn, tham gia phát triển các mặt, như tự quản địa phương, hỗ trợ các nghiệp đoàn, bảo vệ các nhóm yếu thế, tham gia bảo vệ môi trường, tăng tình tương thân, tương ái,...

- Tham gia kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội. Thông qua các tổ chức xã hội này, người dân thực hiện vai trò là người đối trọng, kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội.

Ngoài ra, một vai trò không nhỏ nữa, đó là tham gia cung cấp các dịch vụ xã hội phi lợi nhuận, xây dựng các doanh nghiệp xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Đặc biệt, các doanh nghiệp xã hội được hình thành từ các sáng kiến xã hội, trên nền tảng giải quyết một vấn đề xã hội cụ thể của cộng đồng, đã đóng góp vai trò không nhỏ trong cung ứng dịch vụ công. Hiện nay, nhiều quốc gia đã chính thức công nhận doanh nghiệp xã hội và tạo lập khung khổ pháp lý, ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp này để hỗ trợ nhà nước thực hiện có hiệu quả hơn các mục tiêu xã hội.

Tuy nhiên, các tổ chức xã hội này cũng có những hạn chế nhất định sau(3):

Thứ nhất, do các tổ chức xã hội thường được tổ chức theo những tiêu chí, tôn chỉ của một ngành, nghề, tôn giáo, hoặc khu vực dân cư nhất định,... nên mối quan tâm lớn nhất của họ phần lớn thường dành cho bản thân tổ chức của mình, chứ không cho toàn thể xã hội, ý thức trách nhiệm của các tổ chức này đôi khi cũng có giới hạn.

Thứ hai, một số các tổ chức xã hội, trong đó có các nhóm sắc tộc, tôn giáo cực đoan lợi dụng danh nghĩa của mình để có những hoạt động tiêu cực, gây tác động xấu đến chính trị, an ninh, xã hội ở các quốc gia, tạo nên sự rối loạn, bất ổn định, làm tổn hại sâu sắc đến phát triển an ninh, thịnh vượng, kinh tế, xã hội của các quốc gia.

Thứ ba, các tổ chức xã hội, đặc biệt là các tổ chức phi chính phủ (NGO) ở Liên minh châu Âu (EU) nói chung đã phát triển quá nhanh, vượt khỏi tầm kiểm soát của đất nước. Trong đó có những NGO đã đưa ra những tôn chỉ, mục đích với những hoạt động trái luật, đã can thiệp quá sâu vào chính trị an ninh đất nước, thực hiện những hành động câu kết, bạo loạn, gây mất ổn định, làm tổn hại đến kinh tế, chính trị, xã hội đất nước, khiến cho đời sống của nhân dân thêm khó khăn.

Thứ tư, một số tổ chức xã hội phát triển không dựa trên nền tảng pháp lý (luật về hội), hoạt động không chịu sự chi phối của pháp luật đất nước, sẽ rất dễ dàng tạo ra các nhóm xã hội, giai cấp... đối kháng, đối lập và sẽ tạo nên các phân mảng xã hội, xung đột xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển chính trị, an ninh, kinh tế, xã hội đất nước.

Tóm lại, nhà nước và thị trường ở trong mối quan hệ vừa đối lập, vừa cộng sinh, có thể hợp lực, vì vậy, cần coi trọng “bàn tay thứ ba” ngoài “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình”, để phát huy lực lượng của xã hội. Tuy nhiên, “bàn tay thứ ba” này không phải là “chìa khóa vạn năng”, cứ sử dụng nó thì cái gì cũng có thể giải quyết được. Bởi vì, nó là khu vực nằm giữa nhà nước, thị trường, là một khoảng không gian “không phân định rõ ràng”. Mỗi quốc gia có cách vận dụng, thực hiện xây dựng các tổ chức xã hội khác nhau, cơ sở pháp lý và cơ chế, chế tài vận hành không giống nhau và đều chưa thật rõ ràng.

3- Ở Việt Nam, qua hơn 30 năm đổi mới, chúng ta đã có những thành công bước đầu trong việc hình thành và phát triển cơ chế thị trường, cũng như điều chỉnh vai trò tương ứng của Nhà nước trong nền kinh tế. Trước hết, đó là sự thay đổi cơ bản quan niệm về chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế. Nếu như Đại hội VII chỉ dừng lại ở mức độ xác định nhiệm vụ: “Bộ máy nhà nước từng bước chuyển sang chức năng quản lý nhà nước, khắc phục dần sự can thiệp vào điều hành kinh doanh...” thì đến Đại hội VIII, quan điểm này được cụ thể hóa hơn: “Nhà nước định hướng phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực, thiết lập khuôn khổ pháp luật, xây dựng chính sách nhất quán, phân phối lại thu nhập, hạn chế tiêu cực của cơ chế thị trường”. Đại hội IX đã xác định rõ định hướng đổi mới chính sách căn bản là: “Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. Đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hóa, nâng cao công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. Tại Đại hội XII, thành quả của đổi mới trong quan niệm về chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế đã thể hiện rõ ràng, vững chắc hơn với khẳng định: “Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội”(4).

Nhà nước cũng từng bước phát huy vai trò của mình trong sửa chữa những “khuyết tật” của thị trường thông qua các chính sách an sinh xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường.

Cùng với đó, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò không nhỏ trong mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, vừa là trung tâm đoàn kết, tập hợp đông đảo các lực lượng quần chúng nhân dân (tính chất xã hội), đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên, vừa thực hiện vai trò cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, tổ chức động viên nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. 

Bên cạnh các tổ chức chính trị - xã hội, trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam còn có hàng trăm tổ chức xã hội khác. Các tổ chức xã hội này đang ngày càng nhiều, với các hình thức tổ chức phong phú, như các hiệp hội kinh tế, hội nghề nghiệp, các hội quần chúng tập hợp theo sở thích, ý nguyện, các tổ chức hoạt động bảo trợ xã hội không nhằm mục đích lợi nhuận... Các hội đã tập hợp đông đảo hội viên tham gia các tổ chức trên hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, ngành, nghề và thể hiện được vai trò của mình với tư cách lực lượng xã hội, cụ thể như tham gia thực hiện dân chủ ở cơ sở; hỗ trợ các hoạt động kinh tế; tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát thực hiện luật pháp, chính sách kinh tế... Hoạt động của các hội đã có những hình thức và nội dung mới phù hợp với lợi ích của hội viên trong cơ chế thị trường, nâng cao trình độ nghề nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh, đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, kể cả quyền lợi của hội viên khi có quan hệ kinh tế với nước ngoài; đóng góp ý kiến với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hội viên; cùng Nhà nước chăm lo những vấn đề xă hội, trước hết là trong lĩnh vực hoạt động nhân đạo, từ thiện... 

Để bảo đảm hài hòa mối quan hệ Nhà nước - thị trường - xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, theo chúng tôi, cần lưu ý một số điểm sau: 

Một là, xác định sự phối hợp giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là xu hướng khách quan trong quản lý nền kinh tế thị trường hiện đại. Nhiệm vụ cụ thể của Nhà nước, thị trường và xã hội biến chuyển cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở trong từng bối cảnh thời gian, không gian, điều kiện cụ thể. Ở nước ta hiện nay, nhiệm vụ bao trùm và xuyên suốt trong việc phát huy hiệu quả mối quan hệ Nhà nước - thị trường - xã hội là xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiệu quả, cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng, tôn trọng quyền sở hữu cá nhân và lợi ích cá nhân, qua đó nâng cao sự thịnh vượng của mỗi cá nhân và toàn xã hội.

Hai là, Nhà nước giữ vai trò chủ thể phát triển xã hội. Với tư cách là chủ thể chính trị, Nhà nước xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách tạo động lực cho thị trường phát triển, đồng thời tạo sự hài hòa trong phát triển giữa cá nhân và cộng đồng, giữa các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,... Coi trọng đúng mức chức năng “làm kinh tế” của Nhà nước. Việc phân bổ các nguồn lực của Nhà nước không thể theo ý muốn chủ quan, mà phải theo các tín hiệu của thị trường, bảo đảm sự minh bạch và có hiệu quả. Muốn vậy, cần tiếp tục đẩy nhanh các tiến trình cơ cấu lại đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và ngân sách nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường, xác định rõ thứ tự các hướng ưu tiên để tập trung hỗ trợ có hiệu quả về tài chính và các nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực kinh tế.

Ba là, xây dựng bộ máy quản lý tinh gọn, phân cấp, trao quyền, xã hội hóa có chọn lọc nhiều lĩnh vực quản lý và cung cấp các dịch vụ công, thúc đẩy dân chủ ở cơ sở nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của quản lý nhà nước và các dịch vụ hành chính công,... chuyển tư duy từ “Nhà nước quản lý” sang “Nhà nước kiến tạo” hướng vào phục vụ người dân và doanh nghiệp. Cải cách bộ máy hành chính, cắt giảm rào cản, tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp. Đề cao mức độ minh bạch và trách nhiệm giải trình để tăng cường sự tin cậy lẫn nhau giữa các tác nhân trong nền kinh tế thị trường. Sự tin cậy là một yếu tố quyết định trong các giao dịch trên thị trường, bổ sung cho những “lỗ hổng” của hệ thống pháp luật. Ở nền kinh tế thị trường của nước ta, có nhiều hiện tượng cho thấy có sự thiếu lòng tin giữa các tác nhân trong nền kinh tế, như giữa cơ quan nhà nước và doanh nghiệp, giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa người dân và doanh nghiệp, giữa người dân và công chức nhà nước,... 

Bốn là, phát huy vai trò và sự chủ động tham gia của người dân, các tổ chức xã hội trong quá trình quản lý nhà nước, xã hội. Pháp luật quy định nhân dân có quyền và trách nhiệm giám sát cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để nhân dân và các tổ chức xã hội giám sát hoạt động của mình. Đại hội X của Đảng nêu rõ: “... phát huy vai trò của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, phát hiện, đấu tranh với các hiện tượng tham nhũng”(5). Tuy nhiên, từ việc chỉ đạo của Đảng đến việc luật hóa quy định rõ quyền, lợi ích hợp pháp và vai trò giám sát và đặc biệt có cơ chế cho việc thực hiện giám sát chính sách, pháp luật vẫn còn nhiều vấn đề cần được hoàn thiện. Trong thời gian tới, cần tập trung giải quyết vấn đề này, tạo điều kiện để các tổ chức xã hội, nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát, đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện chức năng quản lý hành chính của mình.

Năm là, kết hợp hài hòa giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội với bảo đảm an sinh xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách. Các chính sách xã hội bên cạnh việc bảo đảm công bằng, hướng đến phục vụ con người cần tính đến sự chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân.

Sáu là, hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với các hội, tổ chức phi chính phủ. Hệ thống thể chế quản lý tạo ra khuôn khổ cho các tổ chức xã hội tham gia tư vấn, giám định và phản biện chính sách công; đứng ra cung ứng một số dịch vụ xã hội phi lợi nhuận nhận ủy quyền từ nhà nước; bảo vệ quyền lợi của các nhóm thiểu số, yếu thế trong xã hội bị thách thức bởi “thất bại” của thị trường. Đồng thời cần khắc phục việc một số tổ chức xã hội lợi dụng danh nghĩa phi chính phủ để can dự vào các vấn đề chính trị gây bất ổn xã hội, lợi dụng tính chất phi lợi nhuận để trốn thuế. Cần đổi mới cơ chế tài chính hỗ trợ của Nhà nước và quản lý chặt chẽ nguồn tài trợ của nước ngoài để hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, không để nước ngoài lợi dụng các tổ chức phi chính phủ gây tổn hại đến độc lập, chủ quyền quốc gia./.

--------------------------------------------------------------------------------

(1) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr. 28

(2) Bao gồm:

- Nhà nước gắn với quyền lực, từ việc hình thành luật pháp đến việc thực thi pháp luật với một bộ máy hành pháp và tư pháp đồ sộ, do vậy khuynh hướng phổ biến là quan liêu, sách nhiễu bằng các thủ tục hành chính phức tạp, rối rắm;

- Các nhà chính trị và các tác nhân khác nhạy bén và tư lợi liên kết để kiểm soát việc phân bổ nguồn lực theo lợi ích của họ;

- Hành vi tham nhũng trong giới chính trị gia và các quan chức chính phủ;

- Không có hoặc thiếu các nhân viên có đủ năng lực với sự hiểu biết cần thiết về kinh tế và các hoạt động kinh doanh; 

- Thiếu kiến thức về khu vực tư nhân và cách thức hoạt động của khu vực này.

(3) Xem: Đinh Công Tuấn: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xã hội dân sự ở Liên minh châu Âu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010, tr. 216 - 219

(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 98

(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 129

TS. Phạm Việt DũngNguồn: Tạp chí Cộng sản




Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất