Bài báo đã đưa ra một số chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt
Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, bác bỏ yêu sách chủ quyền phi căn cứ của
Trung Quốc và cung cấp cho đọc giả thông tin khái quát về diễn biến
tranh chấp xung quanh quần đảo này.
Ngày 1/6, tờ Gazeta.ru, một trong 3 báo điện tử tư nhân lớn nhất ở Nga
với lượng truy cập trung bình 3 triệu lượt/ngày có bài viết: “Việt Nam
sẽ không bao giờ chấp nhận” của nhà báo Vladimir Koryagin.
Tác giả đã đưa ra một số chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, bác bỏ yêu sách chủ quyền phi căn cứ
của Trung Quốc và cung cấp cho đọc giả thông tin khái quát về diễn biến
tranh chấp xung quanh quần đảo này. PV TTXVN tại Liên bang Nga giới
thiệu nội dung bài viết:
400 năm không có Trung Quốc
Trong thế kỷ 20, Biển Đông trở thành một trong những điểm nóng tiềm tàng
mà xung đột có thể dẫn đến chiến tranh thế giới thứ ba. Tuy nhiên lịch
sử xung đột xung quanh các vùng lãnh thổ tranh chấp nằm trên Biển Đông
đã có lịch sử ít nhất vài thế kỷ. Về cơ bản, các nước trong diện tranh
chấp đều đưa ra các bản đồ cổ làm bằng chứng nhằm khẳng định chủ quyền
đối với một hoặc một vài hòn đảo.
Quần đảo Hoàng Sa cùng với quần đảo Trường Sa lần đầu tiên được nhắc đến
vào thế kỷ thứ 17 trong “Tuyển tập bản đồ chỉ dẫn các con đường dẫn
xuống đất phía Nam” của Việt Nam dưới tên có nghĩa là “Cát vàng."
Theo các tài liệu lịch sử, vào năm 1721 Việt Nam đã thành lập Cơ quan
hành chính “Hoàng Sa” (Hoàng Sa là tên gọi bằng tiếng Việt của Paracel)
nhằm khai thác tập trung các hòn đảo ở biển Đông, cũng như trang bị các
tàu để tiến ra các đảo này.
Trong khi đó, trong các tàng thư và tài liệu của Trung Quốc thời đó,
kể cả trong “Đại sử ký nhà Thanh” đều không nhắc đến hai quần đảo Trường
Sa và Hoàng Sa.
Hoàng Sa cũng chỉ được một số ít các nhà đi biển người Pháp và Hà Lan
nhắc đến, những người may mắn vượt qua Biển Đông thành công và đến được
Việt Nam. Họ cũng viết rằng chính người Việt Nam đã thu được một số
lượng lớn súng đạn và các đồ vật có giá trị khác từ những con tàu bị đắm
khi đi qua các quần đảo này. Người Việt Nam thậm chí còn xây dựng một
hạm đội quy mô nhỏ nhằm kiểm soát các tàu của nước ngoài đánh bắt cá tại
khu vực quần đảo Hoàng Sa.
Đến đầu thế kỷ 19, vua Gia Long là vị vua đầu tiên của Việt Nam tuyên bố
chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong thời gian
này nhiều bản đồ các loại đã được xuất bản, trong đó Hoàng Sa được biểu
thị là lãnh thổ của Việt Nam.
Năm 1838 nhà truyền giáo Công giáo Pháp Joan-Luis-Taberu đã xuất bản
cuốn "Dictionarium Latino-Annamiticum completum et novo ordine
dispositum (tạm dịch là cuốn từ điển tiếng Việt-Latinh). Trong đó quần
đảo Hoàng Sa được định nghĩa là "Paracel seu Cát vàng." Tiếp sau đó, nhà
địa lý Hà Lan Villem Blau chính thức đặt tên cho đảo này bằng tiếng
châu Âu là “Pracel.” Về sau này do sự mai một của thời gian và các nhà
đi biển người Pháp truyền khẩu không chính xác nên “Pracel” đã bị gọi
trệch đi thành “Le Paracel.”
Cuối thế kỷ 19 tại khu vực quần đảo Hoàng Sa có 2 tàu chở đồng của Anh
bị đắm. Người dân đảo Hải Nam của Trung Quốc trục vớt được và chiếm giữ
hàng hoá trên tàu khiến chính quyền Anh hết sức bất bình. Khi đó Trung
Quốc trả lời chính quyền Anh rằng quần đảo Hoàng Sa không phải là lãnh
thổ của Trung Quốc, vì vậy chính quyền nước này không chịu trách nhiệm
trước bất cứ sự việc gì xảy ra ở đây.
Bành trướng trỗi dậy
Hiện trạng ở quần đảo Hoàng Sa lẽ ra được giữ nguyên dưới thời Pháp
thuộc nếu như không có sự đối đầu Anh-Pháp và kéo theo sự ủng hộ tương
ứng của Trung Quốc và Việt Nam. Năm 1933 cuốn “Bản đồ quản lý hành chính
mới của Trung Quốc” ra đời, trên đó Trường Sa và Hoàng Sa được người
Trung Quốc gọi theo tiếng Hán là “Nam Sa và Tây Sa” trực thuộc quản lý
hành chính của tỉnh Quảng Đông.
Dưới tác động của bối cảnh mới này chính quyền đô hộ Pháp đã áp dụng một
số biện pháp: Khâm sứ Pháp tại Đông Dương Jules Brevie đã ra lệnh thành
lập cơ quan hành chính quản lý quần đảo Hoàng Sa và cho dựng trên quần
đảo một tấm bia có dòng chữ “Cộng hòa Pháp-Vương quốc Annam - quần đảo
Hoàng Sa, 1816." Cũng trong khoảng thời gian đó, Nhật tích cực hoạt
động, đánh chiếm đầu tiên là Trường Sa sau đó là Hoàng Sa vào đầu thế
chiến thứ hai.
Năm 1946, người Pháp và Việt Nam tiến ra quần đảo Hoàng Sa để giải giáp
quân Nhật đang đồn trú tại đây, tuy nhiên bị quân đội Trung Quốc ngăn
cản. Trong vòng 1 ngày, Quân đội Trung Quốc đã củng cố vững chắc lực
lượng trên quần đảo và năm 1947 Tưởng Giới Thạch ban bố một quyết định,
theo đó Trường Sa và Hoàng Sa chính thức mang tên gọi của Trung Quốc và
thuộc thành phần lãnh thổ Trung Quốc. Lúc đó Bắc Kinh phớt lờ sự phản
đối từ phía chính phủ Việt Nam và Pháp.
Khi Tưởng Giới Thạch và thân cận trong Quốc Dân Đảng bỏ chạy sang Đài
Loan thì toàn bộ các đơn vị đồn trú trên quần đảo Hoàng Sa cũng rút
theo. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông lên nắm quyền tiếp tục tuyên bố chủ
quyền đối với quần đảo này. Cùng thời điểm này Nhật Bản chính thức tuyên
bố từ bỏ quyền và yêu sách đối với cả 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Điều này được ghi nhận trong Hiệp ước hòa bình San-Francisco 1951.
Năm 1956 Viễn chinh Pháp rút hoàn toàn khỏi lãnh thổ Việt nam và kể từ
thời điểm này Việt Nam, vốn bị chia cắt làm 2 miền phải độc lập chống
lại chính sách bành trướng của Trung Quốc. Cũng trong năm 1956 Trung
Quốc đánh chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa còn Việt Nam chiếm giữ một
phần, nơi trước đây quân đội Pháp kiểm soát.
Sự căng thẳng tình hình tiếp theo xảy ra vào năm 1959, khi Trung Quốc
đưa 80 lính và vật liệu xây dựng lên quần đảo xây nhà kiên cố và sau đó
dựng cờ Trung Quốc. Các đơn vị biên phòng miền Nam Việt Nam ngay lập tức
có mặt tại các hòn đảo và bắt giữ toàn bộ người trên đó. Bắc Kinh chỉ
thể hiện sự phẫn nộ bằng cách ra công hàm phản đối ở cấp Bộ Ngoại giao
vì lo ngại phải chạm trán với quân đội Mỹ đến giúp đỡ chính quyền miền
Nam Việt Nam.
Năm 1964 Mỹ đẩy mạnh can thiệp vào Việt Nam bằng cách hậu thuẫn chính quyền miền Nam.
Trung Quốc đã không thể lợi dụng sự thất bại của Mỹ trong chiến tranh
Việt nam vào mục đích của mình và từ năm 1971 bắt đầu bình thường hóa
quan hệ với Mỹ. Việc này cho phép Trung Quốc hợp pháp hóa yêu sách chủ
quyền đối với Hoàng Sa.
Năm 1974 Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ các hòn đảo. Thời điểm đó Mỹ đang
bận chuẩn bị ký Hiệp định hoà bình với Việt Nam, đồng thời rút toàn bộ
quân ra khỏi các vùng cứ điểm ở miền Nam Việt Nam. Trong khi đó, chính
quyền miền Bắc Việt Nam cũng đang tập trung toàn bộ lực lượng để tiến
hành chiến dịch lịch sử giải phóng Sài Gòn.
Trung Quốc đánh chiếm được Hoàng Sa một mặt do chính quyền miền Nam Việt
Nam không còn nhận được sự hẫu thuẫn của Mỹ nên rất yếu và Mỹ-Trung
không còn là đối thủ của nhau. Mặt khác chính quyền miền Bắc Việt Nam
còn đang lo nhiệm vụ thống nhất đất nước nên chưa thể nêu yêu sách chủ
quyền đối với Hoàng Sa. Như vậy, việc Trung Quốc đánh chiếm quần đảo
Hoàng Sa được xem như sự đã rồi, để từ đây Trung Quốc bắt đầu hướng bành
trướng xuống quần đảo Trường Sa./.
Cao Cường (Vietnam+)