Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”, “Quan tâm, tạo điều kiện phát triển văn hóa, văn nghệ của các dân tộc thiểu số”(3).
Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, thời gian qua, Nhà nước đã ban hành các chính sách nhằm phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, tập trung vào các chính sách cơ bản như: bảo tồn, phát huy tiếng nói, chữ viết; bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa truyền thống; bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp gắn với phát triển du lịch; công tác truyền thông; công tác lưu trữ...
Văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số đã và đang thực sự là một bộ phận quan trọng, cấu thành của văn hóa Việt Nam, là tài sản quý giá của đất nước góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thời gian qua, những kết quả đạt được từ các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa đã góp phần tích cực tạo nên những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, phong phú, đa dạng hóa đời sống tinh thần đồng bào các dân tộc, góp phần vào sự phát triển chung của địa phương và của đất nước. Tính tự quản, ý thức cội nguồn, đoàn kết cộng đồng trong các bản, làng, buôn, phum, sóc… của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam được duy trì và phát huy. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với xây dựng nông thôn mới tạo nên môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng, nâng cao đời sống sinh hoạt tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiều di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm, lập hồ sơ khoa học và xếp hạng cấp quốc gia và cấp quốc gia đặc biệt. Qua những hoạt động có ý nghĩa được triển khai trong thời gian qua, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của đồng bào các dân tộc thiểu số được bảo tồn, tôn vinh và phát huy giá trị; truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc ngày càng được củng cố, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được tăng cường…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn không ít hạn chế, bất cập cần quan tâm khắc phục, trong đó có việc thiếu đồng bộ, chưa phù hợp của hệ thống chính sách văn hóa đối với các dân tộc thiểu số; chính sách về văn hóa chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn lực đầu tư hỗ trợ bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số còn hạn chế, sử dụng thiếu hiệu quả. Nhận thức một bộ phận không nhỏ các ngành, các cấp về văn hóa dân tộc thiểu số còn hạn chế. Chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng nên chưa phát huy được hiệu quả tài năng, tâm huyết của đội ngũ trí thức, nghệ nhân dân gian dân tộc thiểu số. Chính sách bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc theo các lĩnh vực cụ thể, chính sách tái tạo môi trường, khôi phục cảnh quan, không gian sinh tồn của đồng bào dân tộc thiểu số chưa được quan tâm định hướng và thể hiện một cách rõ ràng...
Múa xòe Thái trong Lễ hội Văn hóa - Du lịch Mường Lò, tỉnh Yên Bái.
Việc phát huy giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số cần tiếp tục hơn nữa trong phát huy vai trò chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền, sự vào cuộc tích cực của các cơ quan chức năng và nhất là sự tự giác, ý thức trách nhiệm của đồng bào các dân tộc thiểu số. Cụ thể hơn, trước mắt, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp:
Một là, đổi mới chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số phải gắn với chính sách phát triển quốc gia - dân tộc, chính sách phát triển của vùng, chú ý đến tính toàn diện, tính đặc thù. Cụ thể hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số thành chương trình, đề án cụ thể, phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Rà soát, bổ sung, sửa đổi các chính sách và văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới công tác văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số hướng đến mục tiêu phát triển bền vững đồng thời phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế và tinh thần tự lực cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Quá trình hoạch định, xây dựng và thực hiện chính sách phải xuất phát từ thực tiễn, từ tiềm năng, lợi thế, tính đặc thù của từng vùng, từng địa phương, từng tộc người và phải đặt trong tổng thể sự phát triển quốc gia, dân tộc. Cần có thái độ tôn trọng đối với di sản văn hóa các dân tộc thiểu số. Tăng cường các hoạt động bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu, đặc trưng và phù hợp với điều kiện mới; bảo đảm hài hòa giữa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy, bảo tồn và phát triển, nhất là phát triển bền vững về văn hóa, đặt trong mối quan hệ với kinh tế - xã hội.
Hai là, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức về công tác bảo tồn văn hóa, về công tác quản lý văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là đối với thế hệ trẻ, củng cố niềm tự hào, ý thức và trách nhiệm của mỗi người dân trong gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần xác định công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về hoạt động bảo tồn văn hóa và quản lý văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một nội dung quan trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với cơ sở. Đồng thời nhân rộng các mô hình bảo tồn văn hóa; xây dựng các mô hình mới về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống phù hợp với thực tiễn của các địa phương.
Nhiệm vụ tuyên truyền cần được lồng ghép với việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu chọn lọc các giá trị văn hóa mới, bài trừ những tập tục cổ hủ; chống âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm gây chia rẽ dân tộc, chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Ba là, đề cao và phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý văn hóa trong định hướng, xây dựng đủ nguồn lực thực hiện các chương trình, dự án, đề án khoa học bảo tồn các giá trị văn hóa và nâng cao hiệu quả công tác quản lý văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Rà soát kiện toàn tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ các cơ quan quản lý theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng công tác tuyển dụng công chức, viên chức được đào tạo đúng chuyên môn, nghiệp vụ; thường xuyên bồi dưỡng, cập nhật kiến thức trong tình hình mới đối với đội ngũ làm công tác dân tộc và quản lý văn hóa dân tộc thiểu số.
Bốn là, chú trọng đầu tư xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số gắn với di tích lịch sử văn hóa từng vùng miền, địa phương. Có cơ chế phát huy vai trò của các nghệ nhân, già làng, trưởng bản trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số; khuyến khích cộng đồng tham gia bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, ngăn chặn nguy cơ làm mai một, sai lệch hoặc thất truyền.
Năm là, tiếp thu thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong quản lý văn hóa, như số hóa những dữ liệu cốt lõi gắn với bản sắc văn hóa đặc trưng của các dân tộc thiểu số. Gắn kết công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa và hoạt động du lịch với sự tham gia của các bên liên quan, trong đó vai trò nòng cốt thuộc về các chủ thể văn hóa... để vừa tạo ra sinh kế, góp phần xóa đói, giảm nghèo, vừa tạo ý thức cho chính cộng đồng trong việc lựa chọn, phát huy, trao truyền và thực hành các giá trị văn hóa đặc trưng, tiêu biểu trong đời sống.
Sáu là, gắn kết giữa xây dựng và phát triển văn hóa, văn nghệ theo hướng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; chú trọng phát triển các ngành công nghiệp văn hóa gắn với sản phẩm và dịch vụ văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số; tiếp tục thực hiện hiệu quả chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm ổn định đời sống cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số./.
MINH THIỆN